bệnh gan thận mủ trên cá lóc
Khám theo yêu cầu tất cả hẹn trước: bệnh viện thao tác làm việc từ thứ 2 – trang bị 6 : Sáng: 7h – 11h30. Chiều: 13h – 16h. Khám dịch vụ quan trọng đặc biệt : Sáng từ 7h – 11h30. Chiều tự 13h mang đến 16h. Bệnh viện Nhi Đồng 1 có khám công ty nhật ko ?
Ngoài Tôm ra thì việc điều trị bệnh cho Cá cũng một trong những chủ đề đang được rất nhiều bà con quan tâm. Cá lóc rất dễ nuôi và thịt rất thơm, ngon
- Mùa xuất hiện bệnh: Bệnh gan thận mủ xuất hiện trên cá tra hầu như quanh năm, nhưng bệnh xảy ra nặng nhất vào lúc giao mùa, mùa mưa, thường bùng phát vào các tháng 7, 8, 10, 11;CHÚ THÍCH: Đối với cá da trơn nuôi tại Mỹ thời gian bùng phát bệnh vào mùa xuân và mùa thu.
Bệnh gan thận mủ hiện đang là bệnh gây nhiều thiệt hại cho nghề nuôi cá lóc (Channas striata) ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.Cá lóc bệnh có dấu hiệu bệnh lý đặc trưng là các nội quan gan, thận và tỳ tạng sưng và có những đốm trắng với đường kính từ 0,1 – 0,2 mm. Vi khuẩn phân lập từ cá lóc bệnh gan thận
Hướng dẫn phòng trị bệnh gan thận mủ trên cá lóc Hướng dẫn biện pháp phòng trị bệnh gan thận mủ trên cá lóc nuôi ao, vèo lưới, hồ xi măng. 11-07-2022
Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd. Nguyên nhân Do vi khuẩn Aeromonas schubertii là tác nhân gây bệnh gan thận mủ ở cá lóc. Giá trị LD50 của chủng Aeromonas schubertii ở cá lóc khoảng 3,32 x 104 CFU/ml. Dấu hiệu bệnh lý Cá có dấu hiệu lờ đờ, tấp mé, bỏ ăn, phản ứng chậm với tiếng động và bơi lờ đờ trên mặt nước Bên ngoài cá biểu hiện một số dấu hiệu đặc trưng như mất sắc tố trên da tạo thành vệt trắng trên thân cá, bụng trương to, một vài con có hiện tượng xuất huyết ở vùng da dưới bụng và xung huyết hậu môn Các cơ quan như gan, thận và tỳ tạng có dấu hiệu sưng to, mềm nhũng và có sự xuất hiện các đốm trắng có đường kính 0,1 – 0,2 mm. Các đốm trắng còn phân bố dọc theo màng ruột của cá. * Phòng bệnh gan thận mủ ở cá lóc - Định kỳ dùng các loại sản phẩm sau để diệt khuẩn 7 - 10 ngày/1 lần, sáng 8- 9 h + Bioxide 150 1lit / m3 nước. Hoặc SANDIN 267 liều 1 lít/ m3 nước. - Trong quá trình nuôi cần bổ sung dinh dưỡng đây đủ Hepavirol Plus, SAN ANTI SHOCK, BIOTICBEST. * Cách Trị bệnh gan thận mủ trên cá lóc Thay 20 - 40% nước trong ao nuôi. Giảm 50% lượng thức ăn hoặc cắt bớt cữ ăn. Xử lý diệt khuẩn bằng Bioxide 150 1lit/ – 3000 m3 nước, hoặc SANDIN 267 liều 1 lít/ - nước. Trộn thuốc vào thức ăn, liên tục 3 - 5 ngày, như sau - Cá dưới 02 tháng tuổi + Buổi sáng MUNOMAN 3 - 5g/kg thức ăn. Và VILEC 405 FS/ SAN ANTI SHOCK 3 - 5g/kg thức ăn + Buổi chiều Hoặc FLODOXY SV liều 100 ml/tấn cá + Ganta-Cefa liều 100g/tấn cá. SAN FLOFENICOL 150 g/tấn cá + ANTI-S 150 g/ 1 tấn cá. - Cá trên 02 tháng tuổi + Buổi sáng MUNOMAN 3 - 5g/kg thức ăn. Và SAN ANTI SHOCK 3 - 5g/kg thức ăn + Hoặc FLODOXY SV liều 100 ml/ 1,5 tấn cá + Ganta-Cefa liều 100g/1,5 tấn cá. SAN FLOFENICOL 150 g/1,5tấn cá + ANTI-S 150 g/ 1,5 tấn cá. Chú ý Liều điều trị có thể điều chỉnh tùy theo mức độ bệnh nặng hay nhe. Sau khi lành bệnh, dùng liên tục 3 ngày BIOTICBEST liều 3 - 5g/kg thức ăn. Và Hepavirol Plus 3 – 5 ml /kg thức ăn. Hoặc cho thêm DOSAL. Tài liệu thuộc phòng kỹ thuật Cty SAN DO.
Hiện nay, bắt đầu vào mùa mưa, nhiệt độ nước thấp. Đây là điều kiện thuận lợi để nhiều mầm bệnh phát triển mạnh, đặc biệt là bệnh gan, thận có mủ. Bệnh gan thận mủ làm giảm năng suất đáng kể trong các hệ thống nuôi Bệnh mủ gan được phát hiện lần đầu tiên năm 1998, chỉ xuất hiện trên cá da trơn, đặc biệt là cá tra, basa; tuy nhiên, hiện đang xảy ra trên tất cả các loại cá nuôi như cá lóc, điêu hồng, cá rô, ếch… Đây là một bệnh xảy ra quanh năm, đặc biệt là mùa mưa, vào mùa lạnh, nhiệt độ thấp gây thiệt hại nghiêm trọng cho các hộ nuôi cá tra, basa ở ĐBSCL, tỷ lệ chết là cao có thể 100% đối với cá bột ương giống, từ 30 – 50% đối với cá thịt và đã làm giảm năng suất đáng kể trong các hệ thống nuôi. Tác nhân Tác nhân gây bệnh gan thận mủ ở cá tra là vi khuẩn Edwardsiella ictaluri còn nguyên nhân gây bệnh gan thận mủ ở cá lóc là vi khuẩn Aeromonas sp. Biểu hiện Các lóc bị bệnh gan thận mủ có biểu hiện bơi lờ đờ, kém linh hoạt. Quan sát bên ngoài cơ thể có nhiều điểm xuất huyết, giải phẫu xoang nội quan thấy có nhiều đốm trắng đục đường kính 1 – 2 mm trên gan, thận và tỳ tạng. Những đốm trắng trên các nội quan cá lóc nhìn giống như dấu hiệu của cá tra bị bệnh gan thận mủ nên người nuôi cá lóc cũng gọi là bệnh gan thận mủ. Tương tự bệnh xuất huyết, cá bệnh gan thận mủ cũng tìm thấy được trên các mẫu mô gan, thận và tỳ tạng những biến đổi mô học đặc trưng như có nhiều vùng hoại tử, xuất hiện nhiều trung tâm đại thực bào sắc tố. Ngoài ra, cá lóc mắc bệnh còn có dấu hiệu tổn thương dạng u hạt trên 3 cơ quan là gan, thận và tỳ tạng; ghi nhận được sự hiện diện của các nhóm vi khuẩn bên trong và khu vực xung quanh của những u hạt. Những ghi nhận trên giống với những đặc điểm của cá rô nhiễm vi khuẩn Aeromonas hydrophila và cá điêu hồng nhiễm vi khuẩn S. agalactiae trong điều kiện thực nghiệm Đặng Thụy Mai Thy và ctv., 2012; Đặng Thụy Mai Thy và Đặng Thị Hoàng Anh, 2012. Ở mô gan, sự sung huyết trong hệ thống mao mạch nằm giữa các tế bào gan kéo dài làm vỡ mạch máu, giải thoát nhiều enzym tiêu hóa, từ các tế bào bạch cầu làm cho tế bào ở vùng viêm bị hủy hoạt dẫn đến hoại tử nhiều vùng trên gan. Làm cho gan mất chức năng khử độc, lọc máu… Từ đó, các chất độc không được loại bỏ sẽ tích lũy trong cơ thể, kết hợp với các yếu tố khác làm cho các chết Theo Robert. Khả năng lây lan Tốc độ lây lan của bệnh gan thận mủ rất nhanh. Khi có mầm bệnh xâm nhập khoảng 3 – 4 ngày, toàn bộ cá trong ao đều bị nhiễm bệnh. Do đó, cần có biện pháp phòng bệnh tích cực. Xác cá chết phải chôn và xử lý vôi bột để hạn chế mầm bệnh lây lan. Không dùng cơ quan nội tạng, máu, mủ và các sản phẩm phụ của cá để chế biến làm thức ăn trở lại cho cá; bởi mầm bệnh sẽ tồn tại lâu trong môi trường nước và phát tán vi khuẩn gây bệnh sang khu vực nuôi cá khác gây thành đại dịch. Phòng bệnh Biện pháp phòng bệnh quan trọng nhất không để cho động vật nuôi thủy sản bị sốc do môi trường thay đổi xấu nhiệt độ, ôxy hòa tan, nhiễm bẩn của nước. Môi trường nước đảm bảo tốt cho đời sống của động vật thủy sản. Đối với bè nuôi cá thường xuyên treo túi vôi, mùa xuất hiện bệnh 2 tuần treo một lần, mùa khác một tháng treo 1 lần. Vôi có tác dụng khử trùng và kiềm hóa môi trường nước. Lượng vôi trung bình 2 kg vôi nung/10 m3. Bè lớn treo nhiều túi và bè nhỏ treo ít túi tập trung ở chỗ cho ăn và phía đầu nguồn nước chảy. Đối với các ao nuôi áp dụng tẩy dọn ao như phương pháp phòng tổng hợp. Cũng định kỳ mùa bệnh 2 tuần rắc xuống ao 1 lần, mùa khác rắc 1 tháng 1 lần, liều lượng trung bình 2 kg vôi nung/100 m3 nước. Ngoài ra, có thể bổ sung thêm lượng Vitamin C cho vào thức ăn trước mùa bệnh hoặc dùng thuốc phối chế KN – 04 -12 của Viện Nghiên cứu NTTS I cho cá ăn phòng bệnh, cách dùng, xem hướng dẫn mục thuốc. Trị bệnh Có thể dùng một số kháng sinh, thảo mộc có tác dụng diệt khuẩn điều trị bệnh như + Cá giống dùng phương pháp tắm thời gian 1 giờ. Oxytetracyline nồng độ 20 – 50 ppm. Streptomycin nồng độ 20 – 50 ppm. + Cá thịt dùng phương pháp cho ăn kháng sinh trộn với thức ăn tinh. Sulfamid liều dùng 150 – 200 mg/kg cá/ngày. Thuốc phối chế KN-04-12 liều dùng 2 – 4 g/kg cá/ngày. Cho cá ăn liên tục từ 5 – 7 ngày. Riêng với kháng sinh từ ngày thứ 2 trở đi liều lượng giảm đi 1/2 so ngày ban đầu.
Hiện nay, các mô hình nuôi cá lóc sử dụng hơn 90% thức ăn công nghiệp, thuận lợi cho các hộ trong việc điều tiết thức ăn theo nhu cầu sử dụng của cá, chủ động chăm sóc, chủ động giữ môi trường nuôi ít biến động xấu. Nghề nuôi cá lóc thâm canh trong ao, vèo lưới, hồ xi măng, phát triển mạnh khu vực Trà Cú tỉnh Trà Vinh, Trảng Bom, Định Quán tỉnh Đồng Nai, và một số huyện thuộc Hậu Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, An Giang. Nuôi cá lóc thâm canh góp phần quan trọng trong việc cải thiện kinh tế hộ, phát triển nghề nuôi thuỷ sản đa dạng hàng hoá. Bệnh mủ gan được phát hiện lần đầu tiên năm 1998, chỉ xuất hiện trên cá da trơn, đặc biệt là cá tra, basa; tuy nhiên, hiện đang xảy ra trên tất cả các loại cá nuôi như cá lóc, điêu hồng, cá rô, ếch… Đây là một bệnh xảy ra quanh năm, đặc biệt là mùa mưa, vào mùa lạnh, nhiệt độ thấp gây thiệt hại nghiêm trọng cho các hộ nuôi cá tra, basa ở ĐBSCL, tỷ lệ chết là cao có thể 100% đối với cá bột ương giống, từ 30 – 50% đối với cá thịt và đã làm giảm năng suất đáng kể trong các hệ thống nuôi. Tuy nhiên, cùng với vấn đề môi trường, dịch bệnh gan thận mủ trên cá lóc đang là vấn đề nan giải, gây khó khăn trong việc chuẩn đoán, điều trị, gây tốn kém chi phí thuốc, hoá chất. Dịch bệnh ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ sống cá nuôi, đến tăng trưởng, độ đồng đều bầy đàn, thiệt hại về kinh tế. Mục lục1. Tác nhân gây bệnh gan thận mủ2. Triệu chứng bệnh gan thận mủ trên cá lóc3. Khả năng lây lan4. Biện pháp phòng trị bệnh gan thận mủ trên cá lóc 1. Tác nhân gây bệnh gan thận mủ Tác nhân gây bệnh gan thận mủ ở cá tra là vi khuẩn Edwardsiella ictaluri còn nguyên nhân gây bệnh gan thận mủ ở cá lóc là vi khuẩn Aeromonas sp. Gan bị vỡ mạch máu, hoại tử, thất thoát Enzyme tiêu hoá, mất chức năng khử độc, lọc máu. Nguyên nhân tiếp theo do di truyền, chọn giống, như sử dụng bầy cá bố mẹ sinh sản nhiều lần. Lai tạo giữa các bầy giống gần với nhau, cá giống bị đồng huyết, trùng huyết. Cá giống chất lượng kém, dễ bị dị hình, dị tật, phân đàn, chậm lớn, tỷ lệ sống thấp. Chất lượng cá giống giảm, ảnh hưởng sức đề kháng bệnh, vi khuẩn có trong nước dễ tấn công, gây bệnh. Nguyên nhân khác do môi trường như chất lượng môi trường nuôi cá kém, nguồn nước ô nhiễm. Ao nhiều chất hữu cơ, khí độc tăng cao, hàm lượng oxy thấp. Tảo độc phát triển trong ao nuôi như tảo lam, làm thay đổi chất lượng nguồn nước. pH biến động liên tục, độ kềm, độ cứng… không phù hợp cho cá nuôi. Môi trường ảnh hưởng sức khoẻ cá, vi khuẩn tấn công, gây bệnh. Thời tiết, khí hậu, cũng là nguyên nhân gây bệnh gan thận mủ trên cá lóc nuôi. Những diễn biến bất thường của thời tiết như nắng nóng, mưa dầm, gây sụp tảo, làm chất lượng nước kém. Nhiệt độ xuống thấp đột ngột, chênh lệch nhiệt độ ngày và đêm gây sốc cho cá nuôi. Mưa làm thay đổi pH và các thông số môi trường trong ao nuôi gây sốc cá. Bên cạnh đó yếu tố dinh dưỡng cũng là tác nhân gây bệnh trên, việc bảo quản kém, thức ăn bị mốc, sinh độc tố, ảnh hưởng chất lượng thức ăn, sức khoẻ cá nuôi. Thức ăn thiếu chất dinh dưỡng cần thiết, thức ăn tươi sống, không đảm bảo chất lượng. Cho ăn dư thừa, gây ô nhiễm nguồn nước, biến động thông số môi trường, gây sốc cá. Nguyên nhân sau cùng do chăm sóc, quản lý. Thay nước, diệt khuẩn, sổ ký sinh trùng… không thực hiện định kỳ, đầy đủ, kịp thời. Bổ xung men tiêu hoá, Enzyme, hỗ trợ gan, premix… chưa được quan tâm kịp thời. 2. Triệu chứng bệnh gan thận mủ trên cá lóc Các lóc bị bệnh gan thận mủ có biểu hiện bơi lờ đờ, kém linh hoạt. Quan sát bên ngoài cơ thể có nhiều điểm xuất huyết, giải phẫu xoang nội quan thấy có nhiều đốm trắng đục đường kính 1 – 2 mm trên gan, thận và tỳ tạng. Những đốm trắng trên các nội quan cá lóc nhìn giống như dấu hiệu của cá tra bị bệnh gan thận mủ nên người nuôi cá lóc cũng gọi là bệnh gan thận mủ. Bệnh gan thận mủ là một trong những bệnh phổ biến, thường gặp, trong nuôi cá lóc. Khi bị bệnh, cá thường xuyên nổi trên mặt nước, phản ứng chậm với tiếng động mạnh. Cá tách đàn, bơi lội chậm chạp, vô hướng. Cá hay tấp bơi dọc mé bờ, cơ thể mất cân đối Cá bệnh xuất huyết nhiều vùng trên thân, tia vây, vây, vảy, cuống đuôi. Tia mang tưa, rách, cụt, trắng nhợt nhạt, hoại tử. Vảy xù, dựng đứng, rách, tróc, từng mảng khỏi thân. Hậu môn sưng, lồi, mắt lồi, thân chuyển màu sậm đen hoặc trắng nhợt. Phân lỏng, nhũn, mau rả, chuyển màu đen sậm hoặc trắng nhợt. Xuất hiện vết thương trên cơ thể, gây bưng mủ, ghẻ, hoại tử cơ thịt. Bụng cá trương to, cơ thịt đàn hồi kém hoặc mất tính năng đàn hồi. Khi mổ cá, nôi tạng xuất huyết. Gan, mật, bao tử, bóng hơi, ruột sưng to, màu sắc nội tạng nhợt nhạt hoặc sậm đen, hoại tử thận chuyển màu đen, thâm tím, tái, trắng nhạt, tưa rách. Cá giảm hoặc bỏ ăn, thường xuyên dư thừa thức ăn. Cá đi phân sống, phân lỏng, dễ tan rã trong nước. Nguồn nước ô nhiễm, keo đặc, có nhiều bọt nổi trên mặt nước, nước ao bốc mùi tanh, hôi thối. Thông số môi trường chuyển xấu, khí độc tăng cao. Cá chết nổi lên mặt nước, số lượng tăng dần. Chất lượng môi trường chuyển xấu nhanh. Thời gian nuôi kéo dài, FCR cao. Bệnh nặng khó điều trị dứt điểm, tỷ lệ cá nhiễm bệnh tăng cao, nhanh, trong thời gian ngắn. Bệnh có khả năng lây lan sang các ao, hồ liền kề, phát tán rộng sang nhiều khu nuôi. Bệnh xảy ra ở nhiều loài cá nuôi, lây lan nhiều loài cá khác nhau. 3. Khả năng lây lan Tốc độ lây lan của bệnh gan thận mủ rất nhanh. Khi có mầm bệnh xâm nhập khoảng 3 – 4 ngày, toàn bộ cá trong ao đều bị nhiễm bệnh. Do đó, cần có biện pháp phòng bệnh tích cực. Xác cá chết phải chôn và xử lý vôi bột để hạn chế mầm bệnh lây lan. Không dùng cơ quan nội tạng, máu, mủ và các sản phẩm phụ của cá để chế biến làm thức ăn trở lại cho cá; bởi mầm bệnh sẽ tồn tại lâu trong môi trường nước và phát tán vi khuẩn gây bệnh sang khu vực nuôi cá khác gây thành đại dịch. 4. Biện pháp phòng trị bệnh gan thận mủ trên cá lóc Các biện pháp phòng bệnh được khuyến cáo thực hiện chủ động bao gồm các công việc như Kiểm tra cá nuôi hàng ngày. Quan sát ngoại quan thân, mang. Nội quan hệ thống tiêu hoá. Kiểm tra độ đồng đều bầy đàn, hoạt động bơi lội, tiêu thụ mồi, tăng trưởng, ước tỷ lệ sống. Kiểm tra môi trường hàng ngày biến động thông số môi trường, khí độc, chủng loại và mật độ tảo, độ trong. Cập nhật số liệu vào sổ nhật ký nuôi cá. Điều chỉnh lượng ăn, số thức ăn, hàm lượng đạm, thực hiện các bước xử lý cần thiết. Phòng bệnh gan thận mủ bà con cần phối hợp nhiều giải pháp chủ động, đồng bộ, trong đó, môi trường Dùng chế phẩm sinh học xử lý nền đáy, thay nước nuôi thường xuyên, nếu có điều kiện. Về dinh dưỡng Nên bổ sung chất hỗ trợ gan như Sorbitol, Methionine, Cholin, Inositol, Beta glucan, trộn vào thức ăn hàng ngày, tăng sức đề kháng. Trộn thêm Enzyme, vi sinh đường ruột, acid hữu cơ, hỗ trợ tiêu hoá. Sổ ký sinh trùng thường xuyên. Kiểm soát con giống, bổ sung Vitamin C, B12, Beta glucan, Premix. Khi tiến hành điều trị bệnh gan thận mủ, việc làm trước khi xử lý là bà con ngưng cho cá ăn 1-2 ngày. Khi cho cá ăn lại 50% lượng ban đầu, tăng lượng từ từ. Xử lý môi trường nước nuôi khi cá nhiễm bệnh bằng cách thay nước nếu có thể, diệt khuẩn nước ao nuôi bằng Nano bạc, BKC, Iodine, H2O2, KMnO4. loại hoá chất, liều lượng dùng, tuỳ thuộc sức khoẻ cá, chất lượng môi trường. Hỗ trợ bón vôi, cải thiện nền đáy, bón chế phẩm sinh học gây lại hệ vi sinh có lợi trong ao. Bổ sung giải gan Sorbitol, Methyonine, B12…, Beta – Glucan, Premix. Khi điều trị bằng kháng sinh Dùng Doxycyclin phối hợp Florphenicol Hoặc dùng Sulfadimethoxin 5g/kg thức ăn phối hợp với Trimethoprim 2g Hoặc dùng Trimethoprim 5g phối hợp với Erythromycin 5g/kg thức ăn. Hoặc dùng Nano bạc đồng tạt và trộn với thức ăn Lưu ý, kháng sinh trộn vào thức ăn cho cá ăn không quá 5 ngày, sau thời gian trên, ngưng kháng sinh. Tăng cường giải độc gan bằng các chất đã nêu trên, bổ sung B12 cho cá hoặc sắt, do cá xuất huyết, mất nhiều máu. Bổ sung men tiêu hoá nhóm Bacillus, Lactobacillus, Saccharomyces. Định kỳ xổ, phòng ký sinh trùng cho cá, giúp cá bắt mồi, tiêu hóa tốt, sinh trưởng nhanh. Dùng Praziquantel, Menbendazole, Fenbendazole, Albendazole … xổ cho KST ra ngoài. Nên xổ ký sinh trùng khi cá khoẻ, dùng hoá chất diệt KST khi xổ ra ngoài môi trường. Dùng hỗ trợ gan, hỗ trợ đề kháng, lợi khuẩn đường ruột cho cá, sau khi xổ ký sinh trùng. CÔNG TY TNHH KỸ THUẬT NANO POWER Địa chỉ Số 240 Võ Văn Hát, Phường Long Trường, TP. Thủ Đức,TP. HCM Hotline 0907 771 622 – 0932 884 877 – 0796 155 955 – 0789 377 177 – 0931 791 133 – 0987 632 531 Email [email protected] Fanpage NanoPower – Nano bạc nguyên liệu
Hướng dẫn biện pháp phòng trị bệnh gan thận mủ trên cá lóc nuôi ao, vèo lưới, hồ xi măng. Gan thận mủ là dịch bệnh phổ biến trên cá lóc. Ảnh netsuthep Nghề nuôi cá lóc thâm canh trong ao, vèo lưới, hồ xi măng, phát triển mạnh khu vực Trà Cú tỉnh Trà Vinh, Trảng Bom, Định Quán tỉnh Đồng Nai, và một số huyện thuộc Hậu Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, An Giang. Nuôi cá lóc thâm canh góp phần quan trọng trong việc cải thiện kinh tế hộ, phát triển nghề nuôi thuỷ sản đa dạng hàng hoá. Hiện nay, các mô hình nuôi cá lóc sử dụng hơn 90% thức ăn công nghiệp, thuận lợi cho các hộ trong việc điều tiết thức ăn theo nhu cầu sử dụng của cá, chủ động chăm sóc, chủ động giữ môi trường nuôi ít biến động xấu. Tuy nhiên, cùng với vấn đề môi trường, dịch bệnh gan thận mủ trên cá lóc đang là vấn đề nan giải, gây khó khăn trong việc chuẩn đoán, điều trị, gây tốn kém chi phí thuốc, hoá chất. Dịch bệnh ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ sống cá nuôi, đến tăng trưởng, độ đồng đều bầy đàn, thiệt hại về kinh tế. Nguyên nhân gây bệnh gan thận mủ trên cá lóc Về nguyên nhân gây bệnh đầu tiên do vi khuẩn Aeromonas sp, G- hình que, gây bệnh trên cá có vảy như cá rô đồng, cá lóc, diêu hồng. Streptococcus là vi khuẩn G-, bao gồm nhiều loài và gây bệnh trên nhiều loài động vật khác nhau…Gan bị vỡ mạch máu, hoại tử, thất thoát Enzyme tiêu hoá, mất chức năng khử độc, lọc máu. Nguyên nhân tiếp theo do di truyền, chọn giống, như sử dụng bầy cá bố mẹ sinh sản nhiều lần. Lai tạo giữa các bầy giống gần với nhau, cá giống bị đồng huyết, trùng huyết. Cá giống chất lượng kém, dễ bị dị hình, dị tật, phân đàn, chậm lớn, tỷ lệ sống thấp. Chất lượng cá giống giảm, ảnh hưởng sức đề kháng bệnh, vi khuẩn có trong nước dễ tấn công, gây bệnh. Chất lượng giống ảnh hưởng đến khả năng kháng bệnh của cá. Ảnh ภาพของ Core Rock Nguyên nhân khác do môi trường như chất lượng môi trường nuôi cá kém, nguồn nước ô nhiễm. Ao nhiều chất hữu cơ, khí độc tăng cao, hàm lượng oxy thấp. Tảo độc phát triển trong ao nuôi như tảo lam, làm thay đổi chất lượng nguồn nước. pH biến động liên tục, độ kềm, độ cứng… không phù hợp cho cá nuôi. Môi trường ảnh hưởng sức khoẻ cá, vi khuẩn tấn công, gây bệnh. Thời tiết, khí hậu, cũng là nguyên nhân gây bệnh gan thận mủ trên cá lóc nuôi. Những diễn biến bất thường của thời tiết như nắng nóng, mưa dầm, gây sụp tảo, làm chất lượng nước kém. Nhiệt độ xuống thấp đột ngột, chênh lệch nhiệt độ ngày và đêm gây sốc cho cá nuôi. Mưa làm thay đổi pH và các thông số môi trường trong ao nuôi gây sốc cá. Bên cạnh đó yếu tố dinh dưỡng cũng là tác nhân gây bệnh trên, việc bảo quản kém, thức ăn bị mốc, sinh độc tố, ảnh hưởng chất lượng thức ăn, sức khoẻ cá nuôi. Thức ăn thiếu chất dinh dưỡng cần thiết, thức ăn tươi sống, không đảm bảo chất lượng. Cho ăn dư thừa, gây ô nhiễm nguồn nước, biến động thông số môi trường, gây sốc cá. Nguyên nhân sau cùng do chăm sóc, quản lý. Thay nước, diệt khuẩn, sổ ký sinh trùng… không thực hiện định kỳ, đầy đủ, kịp thời. Bổ xung men tiêu hoá, Enzyme, hỗ trợ gan, premix… chưa được quan tâm kịp thời Triệu chứng bệnh gan thận mủ trên cá lóc Bệnh gan thận mủ là một trong những bệnh phổ biến, thường gặp, trong nuôi cá lóc. Khi bị bệnh, cá thường xuyên nổi trên mặt nước, phản ứng chậm với tiếng động mạnh. Cá tách đàn, bơi lội chậm chạp, vô hướng. Cá hay tấp bơi dọc mé bờ, cơ thể mất cân đối Cá bệnh xuất huyết nhiều vùng trên thân, tia vây, vây, vảy, cuống đuôi. Tia mang tưa, rách, cụt, trắng nhợt nhạt, hoại tử. Vảy xù, dựng đứng, rách, tróc, từng mảng khỏi thân. Hậu môn sưng, lồi, mắt lồi, thân chuyển màu sậm đen hoặc trắng nhợt. Phân lỏng, nhũn, mau rả, chuyển màu đen sậm hoặc trắng nhợt. Xuất hiện vết thương trên cơ thể, gây bưng mủ, ghẻ, hoại tử cơ thịt. Cá lóc bị mắc gan thận mủ có những biểu hiện đặc trưng. Ảnh minh họa Tepbac. Bụng cá trương to, cơ thịt đàn hồi kém hoặc mất tính năng đàn hồi. Khi mổ cá, nôi tạng xuất huyết. Gan, mật, bao tử, bóng hơi, ruột sưng to, màu sắc nội tạng nhợt nhạt hoặc sậm đen, hoại tử thận chuyển màu đen, thâm tím, tái, trắng nhạt, tưa rách. Cá giảm hoặc bỏ ăn, thường xuyên dư thừa thức ăn. Cá đi phân sống, phân lỏng, dễ tan rã trong nước. Nguồn nước ô nhiễm, keo đặc, có nhiều bọt nổi trên mặt nước, nước ao bốc mùi tanh, hôi thối. Thông số môi trường chuyển xấu, khí độc tăng cao. Cá chết nổi lên mặt nước, số lượng tăng dần. Chất lượng môi trường chuyển xấu nhanh. Thời gian nuôi kéo dài, FCR cao. Bệnh nặng khó điều trị dứt điểm, tỷ lệ cá nhiễm bệnh tăng cao, nhanh, trong thời gian ngắn. Bệnh có khả năng lây lan sang các ao, hồ liền kề, phát tán rộng sang nhiều khu nuôi. Bệnh xảy ra ở nhiều loài cá nuôi, lây lan nhiều loài cá khác nhau Biện pháp phòng trị bệnh gan thận mủ trên cá lóc Các biện pháp phòng bệnh được khuyến cáo thực hiện chủ động bao gồm các công việc như – Kiểm tra cá nuôi hàng ngày. Quan sát ngoại quan thân, mang. Nội quan hệ thống tiêu hoá. – Kiểm tra độ đồng đều bầy đàn, hoạt động bơi lội, tiêu thụ mồi, tăng trưởng, ước tỷ lệ sống. Kiểm tra môi trường hàng ngày biến động thông số môi trường, khí độc, chủng loại và mật độ tảo, độ trong. Cập nhật số liệu vào sổ nhật ký nuôi cá. – Điều chỉnh lượng ăn, số thức ăn, hàm lượng đạm, thực hiện các bước xử lý cần thiết. Phòng bệnh gan thận mủ bà con cần phối hợp nhiều giải pháp chủ động, đồng bộ, trong đó, môi trường Dùng chế phẩm sinh học xử lý nền đáy, thay nước nuôi thường xuyên, nếu có điều kiện. Về dinh dưỡng Nên bổ sung chất hỗ trợ gan như Sorbitol, Methionine, Cholin, Inositol, Beta glucan, trộn vào thức ăn hàng ngày, tăng sức đề kháng. Trộn thêm Enzyme, vi sinh đường ruột, acid hữu cơ, hỗ trợ tiêu hoá. Sổ ký sinh trùng thường xuyên. Kiểm soát con giống, bổ sung Vitamin C, B12, Beta glucan, Premix. Cần phối hợp nhiều giải pháp để phòng trị bệnh gan thận mủ trên cá lóc. Ảnh BAKERYLY Khi tiến hành điều trị bệnh gan thận mủ, việc làm trước khi xử lý là bà con ngưng cho cá ăn 1-2 ngày. Khi cho cá ăn lại 50% lượng ban đầu, tăng lượng từ từ. Xử lý môi trường nước nuôi khi cá nhiễm bệnh bằng cách thay nước nếu có thể, diệt khuẩn nước ao nuôi bằng BKC, Iodine, H2O2, KMnO4. loại hoá chất, liều lượng dùng, tuỳ thuộc sức khoẻ cá, chất lượng môi trường. Hỗ trợ bón vôi, cải thiện nền đáy, bón chế phẩm sinh học gây lại hệ vi sinh có lợi trong ao. Bổ sung giải gan Sorbitol, Methyonine, B12…, Beta – Glucan, Premix. Khi điều trị bằng kháng sinh – Dùng Doxycyclin phối hợp Florphenicol – Hoặc dùng Sulfadimethoxin 5g/kg thức ăn phối hợp với Trimethoprim 2g – Hoặc dùng Trimethoprim 5g phối hợp với Erythromycin 5g/kg thức ăn. Lưu ý, kháng sinh trộn vào thức ăn cho cá ăn không quá 5 ngày, sau thời gian trên, ngưng kháng sinh. Tăng cường giải độc gan bằng các chất đã nêu trên, bổ sung B12 cho cá hoặc sắt, do cá xuất huyết, mất nhiều máu. Bổ sung men tiêu hoá nhóm Bacillus, Lactobacillus, Saccharomyces. Định kỳ xổ, phòng ký sinh trùng cho cá, giúp cá bắt mồi, tiêu hóa tốt, sinh trưởng nhanh. Dùng Praziquantel, Menbendazole, Fenbendazole, Albendazole … xổ cho KST ra ngoài. Nên xổ ký sinh trùng khi cá khoẻ, dùng hoá chất diệt KST khi xổ ra ngoài môi trường. Dùng hỗ trợ gan, hỗ trợ đề kháng, lợi khuẩn đường ruột cho cá, sau khi xổ ký sinh trùng. Lý Vĩnh Phước
Hiện nay, các mô hình nuôi cá lóc sử dụng hơn 90% thức ăn công nghiệp, thuận lợi cho các hộ trong việc điều tiết thức ăn theo nhu cầu sử dụng của cá, chủ động chăm sóc, chủ động giữ môi trường nuôi ít biến động xấu. Nghề nuôi cá lóc thâm canh trong ao, vèo lưới, hồ xi măng, phát triển mạnh khu vực Trà Cú tỉnh Trà Vinh, Trảng Bom, Định Quán tỉnh Đồng Nai, và một số huyện thuộc Hậu Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, An Giang. Nuôi cá lóc thâm canh góp phần quan trọng trong việc cải thiện kinh tế hộ, phát triển nghề nuôi thuỷ sản đa dạng hàng hoá. Bệnh mủ gan được phát hiện lần đầu tiên năm 1998, chỉ xuất hiện trên cá da trơn, đặc biệt là cá tra, basa; tuy nhiên, hiện đang xảy ra trên tất cả các loại cá nuôi như cá lóc, điêu hồng, cá rô, ếch… Đây là một bệnh xảy ra quanh năm, đặc biệt là mùa mưa, vào mùa lạnh, nhiệt độ thấp gây thiệt hại nghiêm trọng cho các hộ nuôi cá tra, basa ở ĐBSCL, tỷ lệ chết là cao có thể 100% đối với cá bột ương giống, từ 30 – 50% đối với cá thịt và đã làm giảm năng suất đáng kể trong các hệ thống nuôi. Tuy nhiên, cùng với vấn đề môi trường, dịch bệnh gan thận mủ trên cá lóc đang là vấn đề nan giải, gây khó khăn trong việc chuẩn đoán, điều trị, gây tốn kém chi phí thuốc, hoá chất. Dịch bệnh ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ sống cá nuôi, đến tăng trưởng, độ đồng đều bầy đàn, thiệt hại về kinh tế. Contents1 Tác nhân gây bệnh gan thận mủ2 Triệu chứng bệnh gan thận mủ trên cá lóc3 Khả năng lây lan4 Biện pháp phòng trị bệnh gan thận mủ trên cá lóc Tác nhân gây bệnh gan thận mủ Tác nhân gây bệnh gan thận mủ ở cá tra là vi khuẩn Edwardsiella ictaluri còn nguyên nhân gây bệnh gan thận mủ ở cá lóc là vi khuẩn Aeromonas sp. Gan bị vỡ mạch máu, hoại tử, thất thoát Enzyme tiêu hoá, mất chức năng khử độc, lọc máu. Nguyên nhân tiếp theo do di truyền, chọn giống, như sử dụng bầy cá bố mẹ sinh sản nhiều lần. Lai tạo giữa các bầy giống gần với nhau, cá giống bị đồng huyết, trùng huyết. Cá giống chất lượng kém, dễ bị dị hình, dị tật, phân đàn, chậm lớn, tỷ lệ sống thấp. Chất lượng cá giống giảm, ảnh hưởng sức đề kháng bệnh, vi khuẩn có trong nước dễ tấn công, gây bệnh. Nguyên nhân khác do môi trường như chất lượng môi trường nuôi cá kém, nguồn nước ô nhiễm. Ao nhiều chất hữu cơ, khí độc tăng cao, hàm lượng oxy thấp. Tảo độc phát triển trong ao nuôi như tảo lam, làm thay đổi chất lượng nguồn nước. pH biến động liên tục, độ kềm, độ cứng… không phù hợp cho cá nuôi. Môi trường ảnh hưởng sức khoẻ cá, vi khuẩn tấn công, gây bệnh. Thời tiết, khí hậu, cũng là nguyên nhân gây bệnh gan thận mủ trên cá lóc nuôi. Những diễn biến bất thường của thời tiết như nắng nóng, mưa dầm, gây sụp tảo, làm chất lượng nước kém. Nhiệt độ xuống thấp đột ngột, chênh lệch nhiệt độ ngày và đêm gây sốc cho cá nuôi. Mưa làm thay đổi pH và các thông số môi trường trong ao nuôi gây sốc cá. Bên cạnh đó yếu tố dinh dưỡng cũng là tác nhân gây bệnh trên, việc bảo quản kém, thức ăn bị mốc, sinh độc tố, ảnh hưởng chất lượng thức ăn, sức khoẻ cá nuôi. Thức ăn thiếu chất dinh dưỡng cần thiết, thức ăn tươi sống, không đảm bảo chất lượng. Cho ăn dư thừa, gây ô nhiễm nguồn nước, biến động thông số môi trường, gây sốc cá. Nguyên nhân sau cùng do chăm sóc, quản lý. Thay nước, diệt khuẩn, sổ ký sinh trùng… không thực hiện định kỳ, đầy đủ, kịp thời. Bổ xung men tiêu hoá, Enzyme, hỗ trợ gan, premix… chưa được quan tâm kịp thời. Triệu chứng bệnh gan thận mủ trên cá lóc Các lóc bị bệnh gan thận mủ có biểu hiện bơi lờ đờ, kém linh hoạt. Quan sát bên ngoài cơ thể có nhiều điểm xuất huyết, giải phẫu xoang nội quan thấy có nhiều đốm trắng đục đường kính 1 – 2 mm trên gan, thận và tỳ tạng. Những đốm trắng trên các nội quan cá lóc nhìn giống như dấu hiệu của cá tra bị bệnh gan thận mủ nên người nuôi cá lóc cũng gọi là bệnh gan thận mủ. Bệnh gan thận mủ là một trong những bệnh phổ biến, thường gặp, trong nuôi cá lóc. Khi bị bệnh, cá thường xuyên nổi trên mặt nước, phản ứng chậm với tiếng động mạnh. Cá tách đàn, bơi lội chậm chạp, vô hướng. Cá hay tấp bơi dọc mé bờ, cơ thể mất cân đối Cá bệnh xuất huyết nhiều vùng trên thân, tia vây, vây, vảy, cuống đuôi. Tia mang tưa, rách, cụt, trắng nhợt nhạt, hoại tử. Vảy xù, dựng đứng, rách, tróc, từng mảng khỏi thân. Hậu môn sưng, lồi, mắt lồi, thân chuyển màu sậm đen hoặc trắng nhợt. Phân lỏng, nhũn, mau rả, chuyển màu đen sậm hoặc trắng nhợt. Xuất hiện vết thương trên cơ thể, gây bưng mủ, ghẻ, hoại tử cơ thịt. Bụng cá trương to, cơ thịt đàn hồi kém hoặc mất tính năng đàn hồi. Khi mổ cá, nôi tạng xuất huyết. Gan, mật, bao tử, bóng hơi, ruột sưng to, màu sắc nội tạng nhợt nhạt hoặc sậm đen, hoại tử thận chuyển màu đen, thâm tím, tái, trắng nhạt, tưa rách. Cá giảm hoặc bỏ ăn, thường xuyên dư thừa thức ăn. Cá đi phân sống, phân lỏng, dễ tan rã trong nước. Nguồn nước ô nhiễm, keo đặc, có nhiều bọt nổi trên mặt nước, nước ao bốc mùi tanh, hôi thối. Thông số môi trường chuyển xấu, khí độc tăng cao. Cá chết nổi lên mặt nước, số lượng tăng dần. Chất lượng môi trường chuyển xấu nhanh. Thời gian nuôi kéo dài, FCR cao. Bệnh nặng khó điều trị dứt điểm, tỷ lệ cá nhiễm bệnh tăng cao, nhanh, trong thời gian ngắn. Bệnh có khả năng lây lan sang các ao, hồ liền kề, phát tán rộng sang nhiều khu nuôi. Bệnh xảy ra ở nhiều loài cá nuôi, lây lan nhiều loài cá khác nhau. Khả năng lây lan Tốc độ lây lan của bệnh gan thận mủ rất nhanh. Khi có mầm bệnh xâm nhập khoảng 3 – 4 ngày, toàn bộ cá trong ao đều bị nhiễm bệnh. Do đó, cần có biện pháp phòng bệnh tích cực. Xác cá chết phải chôn và xử lý vôi bột để hạn chế mầm bệnh lây lan. Không dùng cơ quan nội tạng, máu, mủ và các sản phẩm phụ của cá để chế biến làm thức ăn trở lại cho cá; bởi mầm bệnh sẽ tồn tại lâu trong môi trường nước và phát tán vi khuẩn gây bệnh sang khu vực nuôi cá khác gây thành đại dịch. Biện pháp phòng trị bệnh gan thận mủ trên cá lóc Các biện pháp phòng bệnh được khuyến cáo thực hiện chủ động bao gồm các công việc như Kiểm tra cá nuôi hàng ngày. Quan sát ngoại quan thân, mang. Nội quan hệ thống tiêu hoá. Kiểm tra độ đồng đều bầy đàn, hoạt động bơi lội, tiêu thụ mồi, tăng trưởng, ước tỷ lệ sống. Kiểm tra môi trường hàng ngày biến động thông số môi trường, khí độc, chủng loại và mật độ tảo, độ trong. Cập nhật số liệu vào sổ nhật ký nuôi cá. Điều chỉnh lượng ăn, số thức ăn, hàm lượng đạm, thực hiện các bước xử lý cần thiết. Phòng bệnh gan thận mủ bà con cần phối hợp nhiều giải pháp chủ động, đồng bộ, trong đó, môi trường Dùng chế phẩm sinh học xử lý nền đáy, thay nước nuôi thường xuyên, nếu có điều kiện. Về dinh dưỡng Nên bổ sung chất hỗ trợ gan như Sorbitol, Methionine, Cholin, Inositol, Beta glucan, trộn vào thức ăn hàng ngày, tăng sức đề kháng. Trộn thêm Enzyme, vi sinh đường ruột, acid hữu cơ, hỗ trợ tiêu hoá. Sổ ký sinh trùng thường xuyên. Kiểm soát con giống, bổ sung Vitamin C, B12, Beta glucan, Premix. Khi tiến hành điều trị bệnh gan thận mủ, việc làm trước khi xử lý là bà con ngưng cho cá ăn 1-2 ngày. Khi cho cá ăn lại 50% lượng ban đầu, tăng lượng từ từ. Xử lý môi trường nước nuôi khi cá nhiễm bệnh bằng cách thay nước nếu có thể, diệt khuẩn nước ao nuôi bằng Nano bạc, BKC, Iodine, H2O2, KMnO4. loại hoá chất, liều lượng dùng, tuỳ thuộc sức khoẻ cá, chất lượng môi trường. Hỗ trợ bón vôi, cải thiện nền đáy, bón chế phẩm sinh học gây lại hệ vi sinh có lợi trong ao. Bổ sung giải gan Sorbitol, Methyonine, B12…, Beta – Glucan, Premix. Khi điều trị bằng kháng sinh Dùng Doxycyclin phối hợp Florphenicol Hoặc dùng Sulfadimethoxin 5g/kg thức ăn phối hợp với Trimethoprim 2g Hoặc dùng Trimethoprim 5g phối hợp với Erythromycin 5g/kg thức ăn. Hoặc dùng Nano bạc đồng tạt và trộn với thức ăn Lưu ý, kháng sinh trộn vào thức ăn cho cá ăn không quá 5 ngày, sau thời gian trên, ngưng kháng sinh. Tăng cường giải độc gan bằng các chất đã nêu trên, bổ sung B12 cho cá hoặc sắt, do cá xuất huyết, mất nhiều máu. Bổ sung men tiêu hoá nhóm Bacillus, Lactobacillus, Saccharomyces. Định kỳ xổ, phòng ký sinh trùng cho cá, giúp cá bắt mồi, tiêu hóa tốt, sinh trưởng nhanh. Dùng Praziquantel, Menbendazole, Fenbendazole, Albendazole … xổ cho KST ra ngoài. Nên xổ ký sinh trùng khi cá khoẻ, dùng hoá chất diệt KST khi xổ ra ngoài môi trường. Dùng hỗ trợ gan, hỗ trợ đề kháng, lợi khuẩn đường ruột cho cá, sau khi xổ ký sinh trùng. CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI KỸ THUẬT VĨNH TÂM Địa chỉ Số A12/85 Đường 1A, Ấp 1, Xã Vĩnh Lộc B, Huyện Bình Chánh, TP. HCM Hotline 0923 884 877 – 0796 155 955 – 0789 377 177 – 0931 791 133 – 0907 771 622 – 0987 632 531 Email [email protected] Fanpage Vĩnh Tâm – Cung cấp giải pháp xử lý môi trường Youtube BIOFIX VIỆT NAM
Hiện nay, bắt đầu vào mùa mưa, nhiệt độ nước thấp. Đây là điều kiện thuận lợi để nhiều mầm bệnh phát triển mạnh, đặc biệt là bệnh gan, thận có gan thận mủ làm giảm năng suất đáng kể trong các hệ thống nuôiBệnh mủ gan được phát hiện lần đầu tiên năm 1998, chỉ xuất hiện trên cá da trơn, đặc biệt là cá tra, basa; tuy nhiên, hiện đang xảy ra trên tất cả các loại cá nuôi như cá lóc, điêu hồng, cá rô, ếch… Đây là một bệnh xảy ra quanh năm, đặc biệt là mùa mưa, vào mùa lạnh, nhiệt độ thấp gây thiệt hại nghiêm trọng cho các hộ nuôi cá tra, basa ở ĐBSCL, tỷ lệ chết là cao có thể 100% đối với cá bột ương giống, từ 30 – 50% đối với cá thịt và đã làm giảm năng suất đáng kể trong các hệ thống nhânTác nhân gây bệnh gan thận mủ ở cá tra là vi khuẩn Edwardsiella ictaluri còn nguyên nhân gây bệnh gan thận mủ ở cá lóc là vi khuẩn Aeromonas hiệnCác lóc bị bệnh gan thận mủ có biểu hiện bơi lờ đờ, kém linh hoạt. Quan sát bên ngoài cơ thể có nhiều điểm xuất huyết, giải phẫu xoang nội quan thấy có nhiều đốm trắng đục đường kính 1 – 2 mm trên gan, thận và tỳ tạng. Những đốm trắng trên các nội quan cá lóc nhìn giống như dấu hiệu của cá tra bị bệnh gan thận mủ nên người nuôi cá lóc cũng gọi là bệnh gan thận tự bệnh xuất huyết, cá bệnh gan thận mủ cũng tìm thấy được trên các mẫu mô gan, thận và tỳ tạng những biến đổi mô học đặc trưng như có nhiều vùng hoại tử, xuất hiện nhiều trung tâm đại thực bào sắc ra, cá lóc mắc bệnh còn có dấu hiệu tổn thương dạng u hạt trên 3 cơ quan là gan, thận và tỳ tạng; ghi nhận được sự hiện diện của các nhóm vi khuẩn bên trong và khu vực xung quanh của những u hạt. Những ghi nhận trên giống với những đặc điểm của cá rô nhiễm vi khuẩn Aeromonas hydrophila và cá điêu hồng nhiễm vi khuẩn S. agalactiae trong điều kiện thực nghiệm Đặng Thụy Mai Thy và ctv., 2012; Đặng Thụy Mai Thy và Đặng Thị Hoàng Anh, 2012. Ở mô gan, sự sung huyết trong hệ thống mao mạch nằm giữa các tế bào gan kéo dài làm vỡ mạch máu, giải thoát nhiều enzym tiêu hóa, từ các tế bào bạch cầu làm cho tế bào ở vùng viêm bị hủy hoạt dẫn đến hoại tử nhiều vùng trên gan. Làm cho gan mất chức năng khử độc, lọc máu… Từ đó, các chất độc không được loại bỏ sẽ tích lũy trong cơ thể, kết hợp với các yếu tố khác làm cho các chết Theo Robert.Khả năng lây lanTốc độ lây lan của bệnh gan thận mủ rất nhanh. Khi có mầm bệnh xâm nhập khoảng 3 – 4 ngày, toàn bộ cá trong ao đều bị nhiễm bệnh. Do đó, cần có biện pháp phòng bệnh tích cực. Xác cá chết phải chôn và xử lý vôi bột để hạn chế mầm bệnh lây lan. Không dùng cơ quan nội tạng, máu, mủ và các sản phẩm phụ của cá để chế biến làm thức ăn trở lại cho cá; bởi mầm bệnh sẽ tồn tại lâu trong môi trường nước và phát tán vi khuẩn gây bệnh sang khu vực nuôi cá khác gây thành đại bệnhBiện pháp phòng bệnh quan trọng nhất không để cho động vật nuôi thủy sản bị sốc do môi trường thay đổi xấu nhiệt độ, ôxy hòa tan, nhiễm bẩn của nước. Môi trường nước đảm bảo tốt cho đời sống của động vật thủy với bè nuôi cá thường xuyên treo túi vôi, mùa xuất hiện bệnh 2 tuần treo một lần, mùa khác một tháng treo 1 lần. Vôi có tác dụng khử trùng và kiềm hóa môi trường nước. Lượng vôi trung bình 2 kg vôi nung/10 m3. Bè lớn treo nhiều túi và bè nhỏ treo ít túi tập trung ở chỗ cho ăn và phía đầu nguồn nước chảy. Đối với các ao nuôi áp dụng tẩy dọn ao như phương pháp phòng tổng hợp. Cũng định kỳ mùa bệnh 2 tuần rắc xuống ao 1 lần, mùa khác rắc 1 tháng 1 lần, liều lượng trung bình 2 kg vôi nung/100 m3 nước. Ngoài ra, có thể bổ sung thêm lượng Vitamin C cho vào thức ăn trước mùa bệnh hoặc dùng thuốc phối chế KN – 04 -12 của Viện Nghiên cứu NTTS I cho cá ăn phòng bệnh, cách dùng, xem hướng dẫn mục bệnhCó thể dùng một số kháng sinh, thảo mộc có tác dụng diệt khuẩn điều trị bệnh như+ Cá giống dùng phương pháp tắm thời gian 1 giờ. Oxytetracyline nồng độ 20 – 50 ppm. Streptomycin nồng độ 20 – 50 ppm.+ Cá thịt dùng phương pháp cho ăn kháng sinh trộn với thức ăn tinh. Sulfamid liều dùng 150 – 200 mg/kg cá/ngày. Thuốc phối chế KN-04-12 liều dùng 2 – 4 g/kg cá/ cá ăn liên tục từ 5 – 7 ngày. Riêng với kháng sinh từ ngày thứ 2 trở đi liều lượng giảm đi 1/2 so ngày ban đầu.
bệnh gan thận mủ trên cá lóc