ca dao về trái cây
Con quạ quắp. Con mặt cắt xơi. Chớ than phận khó ai ơi! Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây. (Ca dao Bình Trị Thiên) Đây là bài ca dao được khá nhiều tác giả bình luận. Nhìn chung, họ đều gặp nhau ở một điểm: trong hoàn cảnh khốn cùng của cuộc sống, người nông dân vẫn
Trong lúc ăn nhậu, những người này gây ồn ào nên Tôn Thất Hải cự cãi với anh Tuấn. Sau đó Hải cầm 1 con dao (loại dao gọt trái cây dài khoảng 22cm) đâm một nhát vào phía sau lưng anh Tuấn, làm anh này gục xuống đất. Mặc dù được đưa đi cấp cứu, nhưng do vết thương
Dưới đây, bạn sẽ tìm thấy bộ sưu tập những câu đố hay, đố vui về quả, trái cây của chúng tôi thu thập trong nhiều năm t Những câu đố về Quả, Trái Cây: 30+ câu đố hay, vui - Dr. Khỏe Review
Ca dao về chữ tín; Ca dao về cuộc sống kinh nghiệm sống; Ca dao về đạo đức; Ca dao về đoàn kết tương trợ; Ca dao về lao động sản xuất; Ca dao về lịch sử; Ca dao về quan hệ xã hội – Đối nhân xử thế; Ca dao về thời tiết; Ca dao về tình bạn; Ca dao về tình cảm gia
Những câu ca dao về Sầu Riêng, tục ngữ Sầu Riêng. Quả sầu riêng được nhiều người ở Đông Nam Á xem như là “vua của các loại trái cây”. Nó có đặc điểm là kích thước lớn, mùi mạnh, và nhiều gai nhọn bao quanh vỏ. Cùng tìm hiểu chủ đề này qua bài viết “Ca dao
Tìm kiếm ca dao tục ngữ hiện đại , ca dao tuc ngu hien dai tại 123doc - Thư viện trực tuyến hàng đầu Việt Nam
Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd. Những bài ca dao - tục ngữ về "trái xoài" Chim xanh ăn trái xoài xanh Chim xanh ăn trái xoài xanh Ăn no tắm mát đậu cành cây đa Cực lòng em phải nói ra Chờ trăng, trăng xế, chờ hoa, hoa tàn Dị bản Chim xanh ăn trái xoài xanh Ăn no tắm mát lên nhành nghỉ ngơi Cực lòng em lắm anh ơi! Kiếm nơi mô thanh vắng, anh ngồi cho em than Chim xanh ăn trái xoài xanh Ăn no tắm mát đậu cành cây đa. Cực lòng em phải nói ra, Chờ trăng, trăng xế, chờ hoa, hoa tàn. Đa Một loại cây thân thuộc, được coi như biểu tượng của làng quê Việt Nam, cùng với giếng nước và sân đình. Cây đa cổ thụ có tán rất rộng, có nhiều gốc và rễ phụ. Ở một số địa phương, cây đa còn được gọi là cây đa đa, hoặc cây da. Theo học giả An Chi, tên cây bắt nguồn từ đa căn thụ 多根樹 cây nhiều rễ, “một hình thức dân dã mà văn chương Phật giáo dùng để mô tả và gọi tên cây một cách súc tích nhất có thể có.” Cây đa Tân Trào Mô Đâu, nào phương ngữ Trung Bộ.
Tổng hợp những câu ca dao tục ngữ về cây cối, câu dừa, cây tre, cây bưởi hay và hấp dẫn Các nội dung về đề tài tục ngữ về cây cối được quan tâm trên Wikivui Những câu ca dao tục ngữ về cây cối, cây dừa, cây tre, cây bưởi Các câu ca dao tục ngữ là những kinh nghiệm mà ông bà ta tóm gọn từ xa xưa rất có lợi và ý nghĩa. Các câu ca dao tục ngữ thường nói về ông bà cha mẹ, con cái, cuộc sống cũng như những điều rất ý nghĩa so với cuộc sống của tất cả chúng ta. Bên cạnh những câu ca dao tục ngữ về ông bà cha mẹ còn có những câu tục ngữ về thiên nhiên và con người. Những câu tục ngữ về thiên nhiên thường nhắc đến các hiện tượng thiên nhiên như mây, mưa, gió bão, ngoài các hiện tượng đó thì những câu ca dao tục ngữ còn nhắc đến cây cối như cây dừa, cây tre, cây bưởi,… những loại cây có ý nghĩa so với nhân dân ta, ý nghĩa về mặt kinh tế lẫn về mặt lịch sử, tất cả chúng ta cùng đi tìm hiểu về những câu ca dao tục ngữ về cây cối, câu dừa, cây tre, cây bưởi. Câu 1 Không chồng, son phấn qua loa, Có chồng, em trang điểm nước hoa dầu dừa Dừa là một loại cây rất thân thương và thân thuộc so với cuộc sống của con người. cây dừa được sử dụng hầu hết các phòng ban của cây như thân cây được dùng làm gỗ, lá cây dùng để lợp nhà, trái dừa dùng để uống nước,…. Tuy nhiên dừa còn dùng để làm nước hoa cho người phụ nữ xưa. Câu 2 Bến Tre dừa ngọt sông dài Nơi chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh. ở Việt Nam dừa được trồng nhiều nhất ở Bến Tre, ở đây có rất nhiều dừa và rất nổi tiếng về dừa. mỗi lần đến đây tất cả chúng ta sẽ thấy được rất nhiều sản phẩm được sử dụng làm nhiều trong cuộc sống. Từ Bến Tre có nhiều dừa làm ra kẹo nổi tiếng ở Mỏ Cày. Câu 3 Bến Tre dừa xanh bát ngát Đường đi Ba Vát gió mát tận xương. Bến Tre được biết tới với rất nhiều dừa, dừa xanh bát ngát khiến ai đi đến cũng thấy mát tận xương tận lòng. Tất cả chúng ta được biết tới rất nhiều loại dừa nhưng dừa rất nhiều ở Bến Tre rất nổi tiếng, tất cả chúng ta tự hào vì điều này. Câu 4 Thấy dừa thì nhớ Bến Tre. Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười. Mỗi nơi đều có một đặc trưng, đặc sản của nó, như Bến Tre có dừa, Đồng Tháp có bông sen. Mỗi nơi có một đặc trưng, một đặc sản riêng, tất cả chúng ta cảm thấy tự hào về những điều giản djj này. Dưới đây tổng hợp những câu ca dao tục ngữ về cây dừa Mài dừa dưới ánh trăng vàng, Ép dầu mà chải tóc nàng tóc anh Hòa Quý với tổng Hòa Thinh Dừa khô thổ sản nổi danh Nam Kỳ Quê em ba dải cù lao Có dừa ăn trái có cau ăn trầu. Quýt đường, vú sữa ngổn ngang, Dừa xanh Sóc Sãi, tơ vàng Ba Tri Theo năm tháng, bên hàng dừa xanh, dưới mái lều tranh Đồng quê thảnh thơi yên tịnh Cây lành trái đơm, cảnh đẹp hoa thơm Hữu tình trăng sáng gió mang Sông quê bến đợi đò xưa Quê hương vẫn đẹp xứ dừa thơ mộng Phong cảnh đồng quê lòng tôi mến chuộng ơi miền quê ngoại. Ôi tuổi thơ, ta dầm mưa ta tắm. Ta lội tung tăng trên mặt nước mặt sông. Ta lặn xuống, nghe vang xa tiếng sấm, Nghe mưa rơi, tiếng ấm tiếng trong. Ôi đâu rồi những trò chơi tuổi trẻ, Những tàu chuối bẹ dừa, những mảnh chòi nhỏ xíu, Những vết chân thơ ấu buổi trước nhất, Mấy tấm mo cau là mấy chiếc thuyền. Dừa ơi dừa! Người bao nhiêu tuổi Mà lá tươi xanh mãi đến giờ Tôi nghe gió ngàn xưa đang gọi Xào xạc lá dừa hay tiếng gươm khua… Dừa Bến Tre ba đồng một trái, Chuối Bến Tre một nải đồng ba. Ai biểu anh đến rồi lại đi ra, Để em thương nhớ, em chờ em đợi, nước mắt sa vắn dài. Trồng dừa ra đọt chặt tàu Sợ em đổi dạ tham giàu bỏ anh. Em đi lên xuống cầu dừa, Lấy ai có chửa đổ thừa cho anh. Kìa vườn dừa cây cao cây thấp Gió quặt quà cành lá xác xơ Thương em anh vẫn đợi chờ. Ăn dừa ngồi gốc cây dừa, Cho em ngồi với, cho vừa một đôi. Trời mưa lộp bộp lá dừa Bợp anh ba bợp cho anh chừa đi đêm. Gió mang gió đẩy lá dừa, Muốn ai thì muốn nhưng chừa em ra. Dừa xanh trên bến Sông Cầu Dừa bao nhiêu trái, dạ em sầu từng ấy. Trăng lên khuất bóng cây dừa, Làm thân con gái phải chừa đi đêm. Muốn trong bậu uống nước dừa Muốn nên cơ nghiệp, bậu chừa lang vân. Dừa tơ bẹ dún tốt tàng, Giàu sang có chỗ, điếm đàng có nơi. Đất thiếu trồng dừa, Đất thừa trồng cau. Dừa giao lá, cá giao đuôi. Ôi thân dừa đã hai lần máu chảy, Biết bao đau thương biết mấy oán hờn. Ai xui thằng giặc đi càn, Vô sâu ong đốt, ra đàng gặp chông. Dừa bị thương dừa không cúi xuống Vẫn ngẩng lên ca hát giữa trời Nếu ngã xuống dừa ơi không uổng Dừa lại đứng lên thân dựng pháo đài. Xem thêm đề tài sáng tạo kinh nghiệm mầm non Những câu ca dao tục ngữ về cây tre Câu 1 Tre già khó uốn. Cây tục ngữ nói về cây tre khi già sẽ khó uốn, khi già sẽ khó khăn trong việc uốn nắn để thành vật giống. Cây tục ngữ mươn cây tre để nói về sự giáo dục con người, khi còn nhỏ không giáo dục lớn lên sẽ không giáo dục được. Câu 2 Tre già măng mọc. Tre là một loại cây rất nổi tiếng, rất có ý nghĩa trong lịch sử của dân tộc Việt Nam ta. Khi tre già thì sẽ có măng mọc lên, tre là loài cây không lúc nào tàn, không lúc nào bị chết. Câu 3 Đóng tre căng bạc giữa đồng Các anh pháo thủ xoay nòng súng lên Súng anh canh cả trời đêm Để cho trăng đẹp toả lên xóm làng. Dây là câu tục ngữ nói về cây tre, nhắc đến giá trị và ý nghĩa của cây tre. Ngày xưa cây tre rất có ý nghĩa trong các cuộc kháng chiến, những cuộc kháng chiến luôn có sự hiện diện của cây tre. Tổng hợp một số câu ca dao tục ngữ về cây tre Tre già là bà lim. Có tre mới cho vay hom tranh. Tre non dễ uốn. Tre già nhiều người chuộng, người già ai chuộng làm chi. Tre lướt cò đỗ. Chặt tre cài bẫy vót chông Tre bao nhiêu lá thương chồng từng ấy. Em về cắt rạ đánh tranh Chặt tre chẻ lạt cho anh lợp nhà Sớm khuya hoà thuận đôi ta Hơn ai gác tía lầu hoa một mình. Một cành tre, năm bảy cành tre Đẹp duyên thì lấy chớ nghe họ hàng. Làng tôi có luỹ tre xanh Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng. Bên bờ vải, nhãn, hai hàng Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng. Trăng lên tắm luỹ tre làng Trăng nhòm qua cửa, trăng tràn vô nôi Trăng thơm bên má em tôi Xanh hàng mi nhỏ, bé cười xinh xinh. Ru em, em ngủ cho lành Cho chị ra điểm tập tành kẻo khuya Ngủ ngon, ngoan nhé, em nghe ! Dù cho địch đến đồng quê quê mình. Đừng hòng phá luỹ tre xanh Cướp con chim nhỏ trên cành của em Súng trường tay chị ngày đêm Bắn cho chúng nó một phen tơi bời. Một số câu ca dao tục ngữ về cây bưởi Câu 1 Trèo lên cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân Nụ tầm xuân nở ra xanh ngắt Em đã có chồng anh tiếc lắm thay Bài ca dao nói về chuyện yêu đương của đôi trai gái được trổ tài qua các loại cây như cây bưởi, nụ tầm xuân,… Những hình ảnh ấy nói lên tính cảm yêu thương của người con trai so với người con gái mình yêu thương. Câu 2 Qua tỉ như chùm gởi đáp nhờ Gá vô nhánh bưởi nọ đặng nhờ hưởng hơi Câu ca dao trổ tài tình cảm của đôi trai gái, của nam nữ được trổ tài qua hình ảnh chum gởi và cây bưởi. hình ảnh chum gởi nhờ vào nhánh bưởi để hưởng hơi nhánh bưởi. Tổng hợp một số câu ca dao tục ngữ về cây bưởi Mưa tháng bảy gãy cành trám Nắng tháng tám rám cành bưởi Cái sáo mặc áo em tao Làm tổ cây cà Làm nhà cây chanh Đọc canh bờ giếng Mỏi miệng tiếng kèn Hỡi cô trồng sen! Cho anh hái lá Hỡi cô trồng bưởi! Cho anh hái hoa Cứ một cụm cà Là ba cụm lý Con nhà ông lý Mặc áo tía tô Tổng hợp một số câu ca dao tục ngữ về cây cối Ba năm mít mới đóng đài Hoa thơm nỏ rộ, hoa xoài nở đua Bông lài, bông lựu, bông ngâu Sao bằng hoa bưởi thơm lâu dịu dàng Cây bần kia hỡi cây bần Lá xanh bông trắng lại gần không thơm Hoa lài hoa lý hoa Ngâu Chẳng bằng hoa bưởi thơm lâu diệu dàng Một cành đào sớm nở hoa Muôn ngàn cây cỏ, theo đà nương thân. Ngó lên đám ngó xanh xanh Người mong hái nụ, người dành bẻ gương Tạnh trời mưa kéo về non Hẹn cùng cây cỏ chớ còn trông mưa Thiếu chi củi quế rừng ta Kiếm chi củi mục rừng xa đem về Tre già đan sọt, nứa tốt đan bồ Trồng Tùng tưới nước cho Tùng Em săm say trên đọt, dưới gốc sùng không hay Trồng cây cũng muốn cây xanh, Kết đôi hổng đặng để thành phu thê. Nghe vẻ nghe ve Nghe vè về rau Xấc láo hỗn hào Là rau nghề ngạnh Trong lòng không tránh Vốn thiệt tâm lang Đất rộng bò ngang Là rau muống biển Quan đòi thầy kiện Bình bát nấu canh Ăn hơi tanh tanh Là rau dấp cá Không ba có má Rau má có bờ Thò tay so đo Nó là rau nhớt Ăn cay như ớt Vốt thiệt rau răm Sống tới ngàn năm Là rau vạn thọ Tay hay xớ rớ Vốn thiệt rau co Làng bắt chẳng cho Chính là rau húng Lên chùa mà cúng Lại có hành hương Giục giã buông cương Là rau mã đề Thân em như quả mãng cầu Đơm lên quả tử hạc chầu lọng che Ai về Quảng Ngãi quê ta Mía ngon, đường ngọt, trắng ngà dễ ăn Mạch nha, đường phổi, đường phèn Kẹo gương thơm ngọt ăn quen lại ghiền. Trên đây là Ca dao, tục ngữ về cây cối, cây dừa, cây tre, cây bưởi, Ngoài ra còn rất nhiều các câu ca dao tục ngữ về cây khác các bạn các bạn có thể xem ở các bài liên quan của Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục Cây Xanh
Vè trái cây Nghe vẻ nghe vè Nghe vè trái cây Dây ở trên mây Là trái đậu rồng ủ vợ đủ chồng Là trái đu đủ Cắt ra nhiều mủ Là trái chuối chát Mình tựa gà ác Trái khóm, trái thơm. Cái đầu chôm bôm Là trái bắp nấu Hình thù xâu xấu Trái cà dái dê Ngứa mà gãi mê Là trái mắt mèo Khoanh tay lo nghèo Là trái bần ổi Sông sâu chẳng lội Là trái mãng cầu Bù cổ, bù đầu Trái dâu, trái cách Cái bụng óc ách Là trái dừa tươi Gai góc đầy người Là trái mít ướt Sanh ở dưới nước Trứng cá ngon ngon Ăn thấy giòn giòn Là ổi xá-lị U buồn, bi lụy Là trái sầu riêng Sánh với tay tiên Là trái phật thủ Tiền bạc đầy đủ Chính là trái sung Tóc mọc lung tung Là chôm chôm trốc Xù xì da cóc Là mãng cầu xiêm Nghe tên phát thèm Me chua, xoài tượng Ăn nhiều thì ớn Là lê-ki-ma Có sọc, có hoa úng là trái vải ẹp như con gái Trái hồng, trái đào Mắt sáng như sao Khác nào trái nhãn Hay ngồi hàng quán Trái cà, trái lê Làm dưa khỏi chê Cà non, cà pháo Chẳng biết gì ráo Trái bí không sai Gốc ở nước ngoài Trái nho, trái táo Nhai nghe rào rạo ậu phộng, hột điều ựng được thiệt nhiều Là trái bình bát Muốn ăn đập nát Trái lựu chớ chi Cho bú trẻ thơ Là trái vú sữa Còn nhiều nhiều nữa Ai biết xin mời Kể tiếp nghe chơi Cái vè cây trái. Cùng thể loại Vè cá biển Hai bên cô bác Lẳng lặng mà nghe Nghe tôi kể cái vè Ngư lương, tử hổ Lý sâm, lý chuối Dưới rạch, dưới ngòi Cá nục, cá úc Cá thơm, cá thác Hơi nào mà kể hết Cá nơi làng này Thần linh chiêm bái Vậy mới cất chùa chiền Mới đúc Phật, đúc chuông Cô bác xóm giềng Lẳng lặng mà nghe Cá nuôi thiên hạ Là con cá cơm, Không ăn bằng mồm Là con cá ngát Không ăn mà ú Là con cá voi, Hai mắt thòi lòi Là cá trao tráo … Vè hoa Hoa nhài thoang thoảng bay xa Mùi thơm khác hẳn, thật là có hương Hoa cúc không sợ thu sương Để màu ẩn dật, mùi hương đậm đà Hoa sen mùa hạ nở ra Ở bùn mà lại không pha sắc bùn Hoa mai chót vót đỉnh non Trắng như bông tuyết hãy còn kém xa Mẫu đơn phú quý gọi là Hải đường sắc đẹp nhưng mà không hương Hoa quỳ nhất ý hướng dương Hoa liễu trong trắng, trông thường như bông Phù dung mọc ở bên sông Hoa đào gặp được gió đông mới cười Vè ăn hàng Vai mang xấp vải trong mo Đi chưa tới chợ đã lo ăn hàng Bánh in cùng những bánh bàng Bánh bò bông, bánh ít trần, ngon thay. Mít nghệ múi bằng cổ tay Bánh đúc chấm mật, bánh gai, bánh bèo Muốn ăn đừng có lo nghèo Tiền tui trong túi đem theo đủ dùng, Ăn một bụng ba mươi đồng Mua mấy thứ để cho chồng tui đây Vừa mới tới vuông đất cày Ngồi dưới gốc cầy lật nón ra ăn Làm vầy dạ cũng băn khoăn Vì chưng lỗ miệng muốn ăn không chừng … Vè bần phú Thảo một bài bần phú, Luận đôi câu nhơn nghĩa tinh vi. Kẻ đắc thời đắc lễ đắc nghi Người thất thế, thất thi thất nghiệp. Cũng có kẻ cực già đời mãn kiếp, Cũng có người phong lưu tự bé chí già. Việc ấy nghĩ không ra, Chẳng biết tại căn hay là tại số? Cũng có kẻ ở phường, ở phố, Cũng có người sầu giả lâm bô. Đã khắp trong cửu quận mười đô, Vì hai chữ phú bần lợn lạo. … Vè đi ở Tóc quăn chải lược đồi mồi Chải đứng chải ngồi, quăn vẫn hoàn quăn Nên thì tớ ở tớ ăn Không nên tớ giã đầu quăn tớ về. Tháng năm công việc ê hề Thằng ở ra về, chủ phải cưỡi trâu. Giã ơn chúng bạn chăn trâu, Tớ về đồng bãi hái dâu, chăn tằm. Tớ ở chưa được nửa năm, Chủ nhà mắng tớ, tớ nằm không yên … Vè loài vật Ve vẻ vè ve Cái vè loài vật Trên lưng cõng gạch Là họ nhà cua Nghiến răng gọi mưa Đúng là cụ cóc Thích ngồi cắn chắt Chuột nhắt, chuột đàn Đan lưới dọc ngang Anh em nhà nhện Gọi kiểu tóc bện Vợ chồng nhà sam … Vè con cút Nghe vẻ nghe ve Nghe vè con cút Trâu ăn mấy chút Bắt mẹ tôi đền Nắm chóp tôi lên Đau đầu cha chả Chạy mời Trùm Xã, Lại có Trưởng Đông Trâu ăn ngoài đồng Bắt vô mà cột Mâm trầu cho tốt Hũ rượu cho ngon Phải trâu của con Thì con bắt lấy … Chỉ vì một chữ ăn Ăn lông ở lỗ, từ thuở tạo thiên Hôm sớm cửa thiền, ăn chay niệm Phật Cả đời chật vật, làm không đủ ăn Tánh hay hiểu lầm, làm sao ăn ở Biết ăn theo thuở, biết ở theo thời Tài sức thua người, thì bị ăn hiếp Đờn ca ăn nhịp, mới thật tài năng Người không chịu làm, hay đi ăn ké Cần phải tránh né, cái bọn ăn dơ Vừa vét vừa quơ, muốn ăn trọn gói Hễ ăn một đọi, thì nói một lời Ăn phải coi nồi, ngồi thời coi hướng … Vè bánh trái Lẳng lặng mà nghe Tôi nói cái vè Vè các thứ bánh Mấy tay phong tình huê nguyệt Thì sẵn có bánh trung thu Mấy ông thầy tu Bánh sen thơm ngát Ai mà hảo ngọt Thì có bánh cam Những kẻ nhát gan Này là bánh tét Còn như bánh ếch Để mấy ông câu Hủ lậu từ lâu Thì ưa bánh tổ … Vè chim chóc Thứ hay lớn tiếng Tu hú ác là Nhảy nhót lân la Chích chòe bìm bịp Tính hay ăn hiếp Chim cú, diều hâu Sang đứng lưng trâu Sáo hành, sáo nghệ … Có cùng từ khóa Anh muốn trông, anh lên Ba Dội anh trông Anh muốn trông, anh lên Ba Dội anh trông, Một Dội anh ngồi, hai Dội anh trông. Trống thu không ba hồi điểm chỉ, Anh ngồi anh nghĩ, thở ngắn, than dài. Trúc nhớ mai, thuyền quyên nhớ khách, Quan nhớ ngựa bạch, bóng lại nhớ câu Anh nhớ em đây biết bao giờ được, Đạo vợ chồng chẳng trước thời sau, Trăm năm xin chớ quên nhau. Thú vị tình thâm Thú vị tình thâm, Lấy phải con vợ đái dầm, thú vị tình khai Anh ơi gà đã gáy dồn Anh ơi gà đã gáy dồn, Dậy đi xúc ốc đồng Tròn, đồng Quang, Rổ sề, rổ sảo, rổ sàng Vợ bưng, chồng gánh kịp hàng chợ phiên Cơm này là nghĩa đá vàng Cơm này là nghĩa đá vàng Chồng em vẫn đợi mấy chàng bưng mâm. Cơm này nửa sống nửa khê Cơm này nửa sống nửa khê, Vợ đơm chồng nếm chẳng chê cơm này Trai không vợ như ngựa không cương Trai không vợ như ngựa không cương Trăm quan tiền nợ không bằng vợ có con riêng Trăm quan tiền nợ không bằng vợ có con riêng Ruộng giữa đồng, chồng giữa làng Ruộng giữa đồng, chồng giữa làng Dị bản Tậu ruộng giữa đồng, lấy chồng giữa làng Ruộng đầu chợ, vợ giữa làng Nhà khó cậy vợ hiền Nhà khó cậy vợ hiền Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Chồng ướt dái vợ sái răng hàm Chồng ướt dái vợ sái răng hàm Đậu rồng Còn gọi là đậu khế, hay đậu xương rồng, hoặc đậu cánh, thuộc loại thân thảo leo, nếu được dựng giàn, đậu rồng có thể bò lan trên 3m. Đậu rồng sinh trưởng và phát triển chủ yếu ở những nước nhiệt đới và cận nhiệt đới, giàu dinh dưỡng lại rất dễ trồng. Đậu rồng Đu đủ Loại cây ăn quả rất thường gặp ở Việt Nam. Quả đu đủ có thể ăn xanh làm nộm, hầm, hoặc làm mắm hoặc ăn chín. Cây và quả đu đủ, từ quyển Medicinal-Plants 1887 của Koehler Chuối chát Chuối hột lúc còn non, thường được dùng trong các món trộn hoặc rau sống. Chuối chát Khóm Loại cây có họ hàng với dứa, ở mép lá có răng như gai nhọn, khi chín quả không có màu vàng như dứa. Ở một số vùng người ta cũng gọi chung khóm và dứa là một. Dứa Còn gọi là thơm hoặc gai, loại cây ăn quả có thân ngắn, lá dài, cứng, có gai ở mép và mọc thành cụm ở ngọn thân, quả có nhiều mắt, phía trên có một cụm lá. Cây dứa đang ra quả Cà dái dê Còn có tên là cà tím, quả mọng nhiều cùi thịt, chứa nhiều hạt nhỏ và mềm, được dùng để chế biến thức ăn trong nhiều nền ẩm thực Á, Âu. Tên cà tím và cà dái dê đều không thực chính xác vì có nhiều quả cà tím không mang màu tím, hay không có hình thù như dái dê. Cà tím Mắt mèo Còn gọi là mai dương, trinh nữ nâu, hay trinh nữ đầm lầy, thuộc họ Đậu, có họ hàng với cây trinh nữ. Trái mắt mèo nhìn giống trái me nhưng có nhiều lông gây ngứa, nếu dây vào mắt có thể gây mù. Trái mắt mèo Bần Còn gọi là cây thủy liễu, loài cây gặp nhiều ở các vùng ngập mặn Nam Bộ. Gỗ bần chủ yếu dùng làm chất đốt, còn trái bần có vị chua, chát với mùi thơm đặc trưng được chế biến thành nhiều món ăn đặc sản của Nam Bộ như mắm bần, lẩu cá nấu bần, mứt bần, kẹo bần... Cây và quả bần Mãng cầu Miền Bắc gọi là na, một loại cây ăn quả cho quả tròn có nhiều múi thực ra, mỗi múi là một quả khi chín có vị ngọt, mùi rất thơm. Lá, hạt và rễ mãng cầu cũng là những vị thuốc dân gian. Trái mãng cầu Phật thủ Một loại cây có quả thường được dùng để chưng trong dĩa trái cây cúng, đôi khi dùng thay cho chanh hoặc bưởi trong chế biến món ăn, làm mứt, trồng làm chậu kiểng, và làm thuốc Đông y. Phật thủ có nghĩa là bàn tay Phật. Quả phật thủ được cho là mang lại may mắn và tuổi thọ. Trái phật thủ Trái sung Trái của cây sung - một loại cây thân gỗ mọc dại - có thể ăn được. Người ta hay muối sung như muối dưa, để ăn trực tiếp hay kho với thịt, cá. Trong mâm ngũ quả ngày Tết nhiều nơi người ta xếp chùm quả sung cùng các loài trái cây khác để chưng trên bàn thờ với mục đích cầu mong sự sung túc, sung sướng cho gia đình trong năm mới. Trái sung Chôm chôm tróc Cũng phát âm là chôm chôm trốc, một loại chôm chôm trồng phổ biến ở Bến Tre, ồng Nai, Vĩnh Long, có đặc điểm là cùi không dính hạt nên rất được ưa chuộng. Mãng cầu xiêm Còn gọi là mãng cầu gai, hay na gai, na xiêm, được trồng nhiều ở miền Nam, cho quả lớn hơn mãng cầu ta nhiều. Có tên là mãng cầu xiêm vì vào loại cây này được nhập vào nước ta qua trung gian là nước Xiêm La tên cũ của Thái Lan. Vỏ ngoài nhẵn có những cái gai nhỏ, mềm, nên còn có tên là mãng cầu gai. Trái mãng cầu xiêm Xoài tượng Một loại xoài vỏ xanh, thịt nhiều, giòn, vị chua thanh. Loại xoài này được gọi là "xoài tượng" vì có kích cỡ lớn tượng từ Hán Việt nghĩa là voi. Ở nước ta, xoài tượng ở Đại An, tỉnh Bình Định là nổi tiếng ngon nhất nước. Trái xoài tượng Lê ki ma Còn gọi là trái trứng gà, một loại trái cây khi chín thịt có màu sắc và hương vị giống lòng đỏ trứng gà luộc chín. Lê ki ma là tên phiên âm từ tiếng Pháp pouteria lucuma cho loại trái này. Trái lê ki ma Chơi chữ, ý chỉ "cà" trong "la cà." Ý chỉ chữ "lê" trong "lê la." Điều Cũng gọi là đào lộn hột, một loại cây công nghiệp dài ngày. Quả thật ra là cuống phình to ra vị ngọt, nhiều nhựa, ăn được. Hạt thật ra là quả hình thận, chứa dầu, rang ăn giòn và bùi. Quả đào lộn hột Bình bát Một loại cây cùng họ với mãng cầu na, thường mọc ven bờ kênh, rạch có nước phèn, nước lợ ở Nam Bộ, quả ăn được. Bình bát dầm đường là món ăn vặt phổ biến ở trẻ em miền quê Nam Bộ, và còn được dùng làm thuốc. Tên gọi bình bát có nguồn gốc từ tiếng Thái-Khmer mean bat. Trái bình bát Vú sữa Loại cây trồng lớn nhanh, thân dẻo, tán rộng. Trái vú sữa to khoảng một nắm tay, da màu xanh, khi chín chuyển sang màu hồng nhạt, tía hoặc nâu ánh lục, vỏ nhiều mủ. Vú sữa hiện có rất nhiều giống như vú sữa Lò Rèn, vú sữa nâu tím, vú sữa vàng. Trong đó, giống vú sữa Lò Rèn được trồng nhiều nhất vì có vỏ mỏng, sáng bóng rất đẹp, thịt trái nhiều, hương vị thơm ngọt. Cây vú sữa được trồng nhiều ở miền Nam nước ta, nhất là ở các tỉnh Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Cần Thơ, Cà Mau và một số tỉnh khác ở miền Trung và miền Bắc. Theo Tổ chức Kỷ lục Việt Nam năm 2013, Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới xuất khẩu trái vú sữa. Trái vú sữa Ngư lương Chỗ đắp bờ để nuôi cá từ Hán Việt. Tử hổ Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Tử hổ, hãy đóng góp cho chúng tôi. Cá nục Một loại cá biển, có rất nhiều ở các vùng biển miền Trung. Cá nục được dùng làm nguyên liệu chính cho nhiều món ăn ngon như cá nục sốt cà, cá nục kho, cá nục hấp cuốn bánh tráng... Cá nục Cá úc Một loài cá da trơn, chủ yếu sống ngoài biển, một số sống trong môi trường nước lợ hay ngọt, thường thấy ở khu vực ôn đới ấm và nhiệt đới. Cá úc được chế biến thành nhiều món đặc sản Nam Bộ. Cá úc Cá thơm Một loại cá nước ngọt có nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long. Cá thác lác Cũng gọi là cá thát lát hoặc cá phác lác, một loại cá nước ngọt rất thường gặp ở Trung và Nam Bộ, đặc biệt là Tây Nam Bộ. Cá thường được đánh bắt để làm chả cá thác lác - một đặc sản nổi tiếng - và các món ngon khác như lẩu cá, muối sả ớt, canh... Cá thác lác Thiên hạ Toàn bộ mọi vật, mọi người. Đây là một khái niệm có gốc từ Trung Quốc thiên 天 trời hạ 下 ở dưới, nghĩa đen là "dưới gầm trời". "Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ." Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân Cá cơm Cũng gọi là cá duội ruội hay cá chi, một loại cá biển phổ biến ở Việt Nam, có thể chế biến thành các món ăn, phơi làm khô cá, hoặc làm nước mắm. Cá cơm Cá ngát Một loại cá sống ở biển và những vùng nước lợ, có da trơn, thân hình giống như con cá trê, đầu to có râu và hai chiếc ngạnh sắc nhọn hai bên, thân dài đuôi dẹt. Cá ngát khi đã trưởng thành thường to bằng cán dao đến cổ tay người lớn. Ngư dân đánh bắt cá ngát bằng cách giăng lưới hoặc câu nhưng hiệu quả nhất là giăng lưới ở những luồng nước đục, chảy nhẹ vì chỗ này thường có nhiều cá. Cá ngát có thể chế biến thành nhiều loại thức ăn, nhưng nổi tiếng nhất có lẽ vẫn là món canh chua cá ngát. Canh chua cá ngát Cá bã trầu Một loại cá biển thân dẹp, vẩy có màu hồng nhạt, mắt to. Cá cho thịt mềm, rất ngọt, được chế biến nhiều món ngon như nướng, chiên, nấu canh chua... Tùy vùng miền mà loại cá này có những cái tên khác nhau như cá thóc, cá mắt kiếng, cá trao tráo hai tên sau có lẽ là dựa vào đặc điểm của mắt cá. Cá bã trầu Nhài Còn gọi là lài, loại cây nhỏ có hoa màu trắng rất thơm. Nhân dân ta thường dùng hoa lài để ướp trà. Bông hoa lài nhài Mẫu đơn Một loại cây sống lâu năm, cho hoa rất to, đường kính đạt tới 15-20 cm, màu đỏ, tím hoặc trắng, mùi thơm gần giống mùi thơm của hoa hồng, do vậy hay được trồng làm cảnh. Theo y học cổ truyền, bộ phận dùng làm thuốc là vỏ rễ phơi hay sấy khô, gọi là mẫu đơn bì. Mẫu đơn còn được gọi là hoa phú quý, hoa vương, thiên hương quốc sắc... Hoa mẫu đơn Hải đường Loài cây nhỡ, sống nhiều năm, họ Chè. Lá dài, dày, mặt trên bóng, mép có nhiều răng cưa. Hoa mọc từ 1 đến 3 đóa ở gần ngọn cây, ngọn cành; hoa có cuống dài, tràng hoa đỏ tía, nhiều nhị đực. Hoa nở vào dịp Tết Âm lịch, đẹp nhưng không thơm. Hoa hải đường Dã quỳ Còn có tên là cúc quỳ, sơn quỳ hoặc hướng dương dại, một loại cây cho hoa màu vàng mọc nhiều ở các khu vực cận nhiệt đới và nhiệt đới. Ở nước ta, dã quỳ được người Pháp đưa vào các đồn điền ở Lâm Đồng, sau dần mọc hoang khắp các tỉnh Tây Nguyên. Hoa quỳ Liễu Một loại cây thân nhỏ, lá rủ. Liễu xuất hiện rất nhiều trong thơ ca Á Đông, và thường tượng trưng cho người con gái chân yếu tay mềm. Liễu rủ bên hồ Gươm Phù dung Còn gọi là mộc phù dung, địa phù dung, mộc liên, loại cây thân nhỡ có hoa, lá có năm cánh, hoa lớn, có hai loại là hoa đơn và hoa kép, hoa nở xòe to bằng cái bát, chất cánh xốp, trông như hoa giấy. Hoa thay đổi màu sắc từ sáng đến chiều sáng trắng, trưa hồng, chiều đỏ. Hoa phù dung Câu này có lẽ lấy ý từ hai câu thơ của Thôi Hộ thời Đường Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong Dịch Mặt người giờ ở nơi nao? Hoa đào vẫn đó cười chào gió đông. Mo Phần vỏ ngoài của hoa dừa hay hoa cau. Khi hoa còn non chưa nở, mo màu xanh, hai cánh dạng thuyền úp lại che chở cho hoa bên trong. Mo tự tách ra khi hoa nở và khô dần đi khi cây đậu quả. Mo cau, mo dừa già sẽ tự rụng xuống hoặc được người trồng giật xuống khi thu hái quả. Mo cau mềm mại, dẻo dai, được dân ta sử dụng để gói giò chả và nhất là gói cơm nắm mang theo khi làm đồng làm rẫy. Cơm nắm mo cau là một hình ảnh quen thuộc và thân thương với người nông dân nước ta. Mo cau Cơm nắm gói trong mo cau. Bánh in Một loại bánh có xuất xứ từ Huế, được làm từ bột năng, bột nếp, đậu xanh, đường, các nguyên liệu khác và được ép, đức thành khuôn mặt đáy của bánh thường khắc các hình chữ Phúc, Lộc, Thọ hoặc các hình trang trí khác và gói trong giấy bóng kính ngũ sắc. Đây là loại bánh để dùng trong ngày Tết, phục vụ việc thờ cúng và đãi khách. Bánh in Bánh bàng Một loại bánh làm từ bột mì, đường, và trứng, được nướng xốp, mặt vàng, gần giống bánh ga-tô, có hình dáng giống quả bàng, Bánh bò Một loại bánh làm bằng bột gạo, nước, đường và men, một số nơi còn cho thêm dừa nạo. Có một số loại bánh bò khác nhau tùy vùng miền, ví dụ Sóc Trăng có bánh bò bông, Châu Đốc có bánh bò thốt nốt... Bánh bò Bánh ít Loại bánh dẻo làm bằng bột nếp, có mặt ở nhiều địa phương, có nơi gọi là bánh ếch hay bánh ết. Tùy theo từng vùng mà bánh ít có hình dạng và mùi vị khác nhau hình vuông, hình tháp, hình trụ dài, gói lá chuối, lá dứa, không nhân, nhân mặn, nhân ngọt... Bánh ít là món bánh không thể thiếu trong các dịp lễ Tết, giỗ cúng. Bánh ít lá gai Bánh ít trần Mít nghệ Một loại mít có múi to, dày, ráo, độ ngọt vừa phải, màu vàng đậm, có thể ăn tươi hoặc làm mít sấy. Mít nghệ Bánh đúc Bánh nấu bằng bột gạo tẻ hoặc bột ngô quấy với nước vôi trong, khi chín đổ ra cho đông thành tảng, thường được ăn kèm với mắm tôm. Bánh đúc là món quà quen thuộc của làng quê. Bánh đúc Hà Nội Bánh ít lá gai Gọi tắt là bánh gai, một loại bánh ít đặc sản của miền Trung. Bánh làm từ lá gai quết nhuyễn với bột dẻo, tạo cho lớp áo ngoài của bánh có màu xanh đen đặc trưng. Nhưn nhân bánh thường là đậu xanh, dừa, đường, thêm chút quế và vani để tạo mùi thơm; đôi khi người ta cũng làm nhân bánh từ tôm xào với thịt, tạo ra món bánh ít mặn. Lá gai Bánh ít lá gai Bánh bèo Một món bánh rất phổ biến ở miền Trung và miền Nam. Bánh làm từ bột gạo, có nhân phía trên mặt bánh làm bằng tôm xay nhuyễn. Nước chấm bánh bèo làm từ nước mắm, và thường đổ trực tiếp vào bánh chứ không cần chấm. Thành phần phụ của bánh bèo thường là mỡ hành, đậu phộng rang giã nhỏ. Tuỳ theo địa phương, có những cách thêm bớt khác nhau cho món bánh này, ví dụ ở Sài Gòn thường bỏ đậu xanh, đồ chua, lại cho ăn kèm bánh đúc, bánh ít, bánh bột lọc... Bánh bèo Kơ nia Người Kinh gọi là cây cầy hoặc cây cốc, một loại cây gỗ cứng mọc nhiều ở các tỉnh Tây Nguyên, ngoài ra còn phân bố từ Quảng Nam đến một số tỉnh Nam Bộ cũng như các đảo Phú Quốc, Côn Đảo. Cây kơ nia có một ý nghĩa tâm linh rất lớn đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Cây kơ nia Nghĩa nhân Cũng viết nhân nghĩa, nghĩa là "lòng yêu thương người nhân và biết làm điều phải nghĩa." Hiểu rộng là đạo nghĩa sống ở đời. Đắc thời đắc lễ đắc nghi Được thời thì được lễ nghi chữ Hán. Thất thế Mất thế lực, mất chỗ tựa. Từ chữ Hán thất 失 mất và thế 勢 thế lực. Thất nghiệp Không có nghề nghiệp, việc làm. Mãn kiếp Suốt đời, cho đến tận lúc chết thường nói về việc không hay. Phong lưu Ngọn gió bay phong, dòng nước chảy lưu. Từ này vốn nghĩa là phẩm cách, tinh thần riêng của mỗi người, hiểu rộng ra là sung sướng, vui với cảnh, không phải chịu buồn khổ. Cõi trần thế nhân sinh là khách cả Nợ phong lưu kẻ giả có người vay Nợ phong lưu - Nguyễn Công Trứ Chí Đến, kéo dài cho đến từ Hán Việt. Căn Gốc rễ chữ Hán. Khái niệm căn thường được gặp trong lí thuyết Phật giáo, chỉ những điều căn bản, gốc rễ của nhận thức, sự việc. Thiện căn ở tại lòng ta Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài Truyện Kiều Số kiếp Vận mệnh của một đời người. Lâm bô Có nguồn gốc từ danh từ limbo trong tiếng Bồ Đào Nha, có nghĩa là một nơi giam cầm các linh hồn hay đang ở vào một tình trạng nào đó dang dở. Cửu Số chín, thứ chín từ Hán Việt Lợn lạo Có thể là cách đọc trại đi của từ lộn lạo. Đồi mồi Một loài rùa biển, mai có vân đẹp nên thường bị đánh bắt để làm đồ mĩ nghệ lược, vòng tay, vòng đeo cổ.... Những đốm nám trên da hoặc trái cây cũng gọi là vết đồi mồi. Con đồi mồi Giã Như từ giã. Chào để rời đi xa. Giã ơn Cảm tạ ơn. Kíp truyền thu lễ, trao lời giã ơn Nhị Độ Mai Dâu tằm Loại cây thường được trồng hai bên bờ sông, chủ yếu để lấy lá cho tằm ăn. Lá và rễ dâu cũng là vị thuốc đông y. Quả dâu tằm chín cũng có thể dùng để ăn hoặc ngâm rượu, gọi là rượu dâu tằm. Ở nước ta, dâu có nhiều giống dâu bầu, dâu da, dâu cỏ, dâu tam bội... Lá và quả dâu tằm Tằm Còn gọi là tằm tơ, ấu trùng của loài bướm tằm. Tằm ăn lá dâu tằm và nhả tơ thành kén. Tằm đã sẵn sàng nhả tơ được gọi là tằm chín, có màu vàng óng hoặc đỏ nâu bóng, trong suốt. Tơ tằm dùng để dệt lụa và có giá trị kinh tế cao. Tằm đang ăn lá dâu Kén tằm Cắn chắt Cắn ăn hạt lúa cho vui miệng hoặc đỡ đói. Về ngóng cô nàng xưa cắn chắt cười lia dăm hạt cốm giờ đã nằm sương giậu lả tầm xuân Người không về - Hoàng Cầm Sam Một sinh vật biển thuộc bộ giáp xác. Sam thường đi thành cặp ở dưới nước, lúc nào con sam đực cũng ôm lấy con sam cái, gọi là đôi sam. Dân gian ta có thành ngữ "thương như sam" hoặc "dính như sam." Đôi sam Cha chả Thán từ dùng để biểu lộ sự ngạc nhiên phương ngữ Trung và Nam Bộ. Trùm Người đứng đầu một phường hội thời xưa. Nghệ sĩ Minh Nhí trong vai trùm Sò áo the xanh trong vở cải lương Ngao Sò Ốc Hến Có bản chép Tôi lại cửa công. Thuở tạo thiên Lúc mới lập ra trời đất. Đọi Cái chén, cái bát phương ngữ một số vùng ở Bắc Trung Bộ. Thời Thì. Xưa vì kị húy vua Tự Đức Nguyễn Phúc Thì nên chữ này được đọc chạnh đi thành "thời." Nguyệt hoa Cũng viết là hoa nguyệt trăng hoa, chỉ chuyện trai gái yêu đương. Từ này có gốc từ nguyệt hạ hoa tiền dưới trăng, trước hoa, những cảnh nên thơ mà trai gái hẹn hò để tình tự với nhau, nay thường dùng với nghĩa chê bai. Cởi tình ra đếm, ra đong Đâu lời chân thật, đâu vòng trăng hoa? Tơ xuân - Huy Trụ Bánh hạt sen Gọi tắt là bánh sen, một số nơi gọi là kẹo hạt sen, loại bánh ngọt làm bằng bột vo nhỏ như hạt sen, ngoài bọc bằng giấy bóng kính nhiều màu. Bánh thường gặp trong dịp Tết nguyên đán. Bánh hạt sen Bánh cam Một loại bánh hình tròn nhìn giống quả cam, làm bằng bột nếp, nhân đậu xanh, bên ngoài phủ nhiều mè vừng, được rán trong dầu, ăn rất ngọt và thơm. Bánh cam được bán nhiều ở các chợ và hàng rong, là một món quà mà trẻ em rất ưa thích. Miền Bắc gọi bánh này là bánh rán, ở một số địa phương miền Trung thì gọi là bánh ram. Bánh cam Bánh tét Có nơi gọi là bánh đòn, một loại bánh của miền Trung và miền Nam, tương tự như bánh chưng ở miền Bắc. Bánh làm bằng gạo nếp, hình trụ dài, gói bằng lá chuối, có thể có nhân đậu và thịt mỡ hoặc không có nhân, khi ăn thì cắt thành khoanh tròn. Những dịp giỗ Tết không thể thiếu món bánh này. Một dĩa bánh tét Hủ lậu Cũ kĩ, lạc hậu, không còn hợp thời nữa. Bánh tổ Một loại bánh tết truyền thống của Quảng Nam. Bánh được chế biến từ nếp và đường, đựng trong những cái "rọ" bằng lá chuối. Bánh dẻo, ngọt, có thể cắt ăn ngay hoặc chiên giòn. Bánh tổ Tu hú Một loài chim có kích cỡ khá lớn, ăn quả và côn trùng, có tiếng kêu to dễ phân biệt. Chúng là chim đẻ nhờ, đẻ trứng của mình vào tổ của các loài chim khác, đặc biệt vào tổ của các loài chim dạng sẻ. Chim tu hú Ác là Còn có tên là bồ các, một loại chim lớn có thể dài từ 40-50 cm có đầu, cổ và ngực màu đen bóng, bụng và vai màu trắng. Ác là loài ăn tạp, chúng có thể ăn từ chim non tới trứng, thú, sâu bọ nhỏ, hạt ngũ cốc và nhiều thứ khác. Có lẽ vì vậy trong ca dao dân ca, ác là thường tượng trưng cho điều xấu hoặc những kẻ độc ác. Tuy nhiên trong văn hóa Trung Quốc, ác là lại có tên là hỉ thước, tượng trưng cho điềm lành. Ác là Chích chòe Tên chung của một số loài chim nhỏ, đuôi dài, ăn sâu bọ. Các loại chính chòe thường gặp là chích chòe than lông màu đen, có đốm trắng, chích chòe lửa có bụng màu gạch đỏ như lửa, chích chòe đất... Hiện nay chích chòe thường được nuôi làm cảnh. Chích chòe lửa Bìm bịp Tên chung để chỉ khoảng 30 loài chim do tiếng kêu của chúng tương tự như "bìm bịp" vào mùa sinh sản. Bìm bịp có lông cánh màu nâu như áo của thầy tu. Một con bìm bịp Cú Một loài chim ăn thịt, thường kiếm mồi vào ban đêm, có mắt lớn ở phía trước đầu. Người xưa xem cú là loài vật xấu xa, tượng trưng cho những người hoặc việc xấu, việc xui xẻo. Cú mèo Diều hâu Loài chim dữ, mỏ quặp, có thị lực rất sắc bén, hay bắt gà, chuột, rắn. Một loại diều hâu Sáo Tên chung của một số loài chim nhỏ, có bộ lông sẫm màu, thường sống trong các hốc, lỗ, và đẻ trứng có vỏ màu xanh lam hoặc trắng. Vài loài sáo có khả năng bắt chước tiếng người, nên thường được nuôi làm chim cảnh. Chim sáo Tam Điệp Tên một dãy núi nằm giữa Ninh Bình và Thanh Hóa, chạy ra biển theo hướng Tây Bắc–Đông Nam, gồm có 3 ngọn. Trên dãy núi này cũng có đèo Tam Điệp, con đường thiên lý cổ thời phong kiến từ Thăng Long vào Nam, đi qua 3 đoạn đèo Đèo phía Bắc, đèo phía Nam, và đèo Giữa. Đèo Tam Điệp cũng có tên dân gian là Ba Dội dội tiếng Việt cổ nghĩa là đợt, lớp. Một đèo, một đèo, lại một đèo, Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo. Cửa son đỏ loét tùm hum nóc, Hòn đá xanh rì lún phún rêu. Đèo Ba Dội - Hồ Xuân Hương Phòng tuyến Tam Điệp Thu không Trống hoặc chiêng đánh vào mỗi mỗi chiều tối, lính huyện thu quân và đóng cổng thành thành bảo vệ huyện đường sau khi xem xét trong thành không có gì khả nghi. Kiều từ trở gót trướng hoa, Mặt trời gác núi chiêng đà thu không. Truyện Kiều Thâm tình Tình nghĩa sâu năng từ Hán Việt. Đồng Tròn, đồng Quang Tên hai cánh đồng thuộc nay thuộc địa phận Bái Đô, Đô Mỹ, xã Hà Tân, huyện Hà Trung, Thanh Hóa. Sề Đồ đan mắt thưa, nan thô, rộng, to hơn rổ, thường dùng đựng bèo, khoai... Xảo Đồ đan bằng tre tương tự như giần nhưng có mắt thưa hơn nhiều, thường dùng để lọc lấy thóc và loại bỏ rơm rác. Động tác dùng xảo cũng gọi là xảo. Sàng Đồ đan bằng tre, hình tròn, lòng nông, có lỗ nhỏ và thưa, thường dùng để làm cho gạo sạch thóc, trấu và tấm. Hành động dùng cái sàng mà lắc cho vật vụn rơi xuống, vật to còn lại cũng gọi là sàng. Sàng gạo Chợ phiên Chợ họp có ngày giờ nhất định. Đá vàng Cũng nói là vàng đá, lấy ý từ từ Hán Việt kim thạch. Kim là kim khí để đúc chuông, đỉnh. Thạch là đá. Ngày trước, những lời vua chúa hoặc công đức của nhân vật quan trọng được khắc ghi trên bia đá hay chuông, đỉnh đồng để lưu truyền mãi mãi. Đá vàng vì thế chỉ sự chung thủy son sắt, hoặc sự lưu truyền tên tuổi mãi mãi về sau. Quan Đơn vị tiền tệ cổ của nước ta dùng đến đầu thế kỷ 20. Đối với tiền quý cổ tiền, một quan bằng 60 tiền 600 đồng kẽm. Với tiền gián sử tiền, một quan bằng 360 đồng kẽm. Ruộng giữa đồng, chồng giữa làng Ruộng giữa đồng là ruộng gần, tiện canh tác, trông nom. Chồng giữa làng nghĩa là chồng cùng làng, tiện đi lại, tìm hiểu. Cũng có ý kiến cho rằng vợ chồng cùng làng lấy nhau thì tiền cheo gọi là cheo nội ít hơn là vợ chồng khác làng cheo ngoại.
Những bài ca dao - tục ngữ về "cây đa" Con chim đa đa đậu nhánh đa đa Con chim đa đa đậu nhánh đa đa Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa Mai sau cha yếu mẹ già Nồi cơm bắc xuống, ấm trà bắc lên. Tháng bảy ông thị đỏ da Tháng bảy ông thị đỏ da Ông mít chơm chởm, ông da rụng rời Ông mít đóng cọc đem phơi Ông da rụng rời đỏ cả chân tay Cây tùng cây bá anh chê Cây tùng cây bá anh chê, Cây đa, cây dứa sum suê anh dùng. Đầu làng cây duối Đầu làng cây duối, Cuối ngõ cây đa Đàng cái ngã ba, Anh đây thợ hàn Con gái mười bảy hăm ba Hai mươi, hăm mốt đem ra anh hàn Nụ này lớn lỗ hao than Đồng đâu anh đổ cho tràn lỗ ni Hết đồng, thì anh pha chì Anh hàn cho một chặp chì ì mặt ra Đầu làng cây duối Đầu làng cây duối, Cuối làng cây đa Cây duối anh để làm nhà Cây đa bóng mát nàng ra anh chào Đôi tay nâng cái khăn đào Bằng khi hội hát anh trao cho nàng Túi anh những bạc cùng vàng Để anh kéo nhẫn cho nàng đeo tay Dù ai bấu chí nàng bay Thì nàng phải giữ nhẫn này cho anh Dù ai bẻ lá vin cành Thì nàng phải nhớ lời anh dặn dò Đầu làng cây duối Đầu làng cây duối, Cuối làng cây đa Ngõ em cây nhãn, Ngõ ta cây đào Có thương mới bước chân vào Không thương có đón có chào cũng không Phượng hoàng đậu cành cây đa Phượng hoàng đậu cành cây đa Sa cơ thất thế lủi theo bầy gà Vị ông thần, nể cây đa Vị ông thần, nể cây đa Cây đa tróc gốc, cái miễu chổng khu Cây đa tróc gốc, cái miễu chổng khu Gặp em đây anh giỡn lu bù Chừng nào chồng của em hay được thì ở tù anh cũng ưng Cây đa là cây đa cũ Cây đa là cây đa cũ Bến đò là bến đò xưa Nay chừ người khác vô đưa Oan ơi, oan hỡi, tức chưa bạn tề! Dị bản Cây đa là cây đa bến cũ, Bến cũ là bến cũ đò xưa, Ôi thôi rồi người khác sang đưa, Thiếp nhìn chàng lưng lẻo, nước sa xuống như mưa hỡi chàng Cây đa Bình Đông, cây đa Bình Tây Cây đa Bình Đông, cây đa Bình Tây Cây đa Xóm Củi, cây đa chợ Đuổi Năm bảy cây đa tàn Trát quan trên gởi giấy xuống làng Cấm điếm, cấm đám, cấm tòng tam tụ ngũ Cấm đủ phu thê Cấm không cho trai tựa gái kề Để cho người cũ trở về với duyên xưa Lạy trời thi đậu Thám hoa Lạy trời thi đậu Thám hoa Trở về đền ơn đáp nghĩa cho cây đa bến đò Con ve kêu trên cành mít mục Con ve kêu trên cành mít mục Con sùng nó đục trên nhánh cây đa Bớ người có mẹ không cha Vô đây kết nghĩa giao hòa cùng anh Lá đa rụng xuống sân đình Lá đa rụng xuống sân đình Lơ thơ có kẻ thất tình mà hư Thương nhau ở dưới gốc đa Thương nhau ở dưới gốc đa Còn hơn ở cả ngôi nhà trăm gian Cây da Chợ Đũi nay nó trụi lủi, trốc gốc, mất tàn, Cây da Chợ Đũi nay nó trụi lủi, trốc gốc, mất tàn Tình xưa còn đó, ngỡ ngàng nan phân Con đò với gốc cây đa Con đò với gốc cây đa Cây đa muôn thuở chẳng xa con đò Anh khôn anh hỏi rễ đa Anh khôn anh hỏi rễ đa Em đần em hỏi cỏ gà cũng thông Hỡi chàng da trắng tóc dài Hỡi chàng da trắng tóc dài Em đã chờ đợi một hai năm trời Cho nên mặt ủ chẳng tươi Sợ chúng bạn cười chẳng dám nói ra Nhớ chàng lòng những xót xa Làm thơ mà dán cây đa giữa đồng Phòng khi qua lại chàng trông Thời chàng mới thấu nõi lòng nhớ thương Mối sầu là mối tơ vương Ai mà gỡ khỏi thiếp thương trọn đời Trên vườn rau cải, dưới lại rau cần Trên vườn rau cải, dưới lại rau cần Cây mơ cây mận ở gần bờ ao Đầu làng có cây đa cao Trăng thanh gió mát lọt vào tận nơi Nhà anh có cái giếng khơi Nhác trông xuống giếng có đôi cành hồng Em nay là gái chưa chồng Anh không có vợ, dốc lòng chờ nhau Đa đa Còn gọi là gà gô, một loài chim rừng, thường sống trên cây hoặc trong các bụi rậm trên núi cao, ăn sâu bọ, đuôi ngắn. Đa đa thường bị săn bắt để lấy thịt. Chim đa đa Đa Một loại cây thân thuộc, được coi như biểu tượng của làng quê Việt Nam, cùng với giếng nước và sân đình. Cây đa cổ thụ có tán rất rộng, có nhiều gốc và rễ phụ. Ở một số địa phương, cây đa còn được gọi là cây đa đa, hoặc cây da. Theo học giả An Chi, tên cây bắt nguồn từ đa căn thụ 多根樹 cây nhiều rễ, “một hình thức dân dã mà văn chương Phật giáo dùng để mô tả và gọi tên cây một cách súc tích nhất có thể có.” Cây đa Tân Trào Thị Loài cây thân gỗ, sống lâu năm, cho quả màu vàng, rất thơm, ăn được. Trước giờ ra về, bao giờ nó cũng bóc thị ra và hai đứa tôi cùng ăn. Ăn xong, chúng tôi không quên dán những mảnh vỏ thị lên bàn rồi ngoẹo cổ nhìn. Những mảnh vỏ thị được bóc khéo khi dán lên bàn hoặc lên tường trông giống hệt một bông hoa, có khi là hoa quì, có khi là hoa cúc đại đóa, có khi là một loài hoa không tên nào đó màu vàng. Mắt biếc - Nguyễn Nhật Ánh Quả thị Mít Loại cây ăn quả thân gỗ nhỡ, lá thường xanh, cao từ 8-15m. Cây ra quả vào mùa xuân, quả chín vào mùa hè. Vỏ quả có gai xù xì, ruột chứa nhiều múi, vị ngọt, có loại mít dai và mít mật. Mít là loại cây quen thuộc ở làng quê nước ta, gỗ mít dùng để làm nhà, đóng đồ đạc, thịt quả để ăn tươi, sấy khô, làm các món ăn như xôi mít, gỏi mít, hạt mít ăn được, có thể luộc, rang hay hấp, xơ mít dùng làm dưa muối gọi là nhút, quả non dùng để nấu canh, kho cá... Quả mít Tùng bá Cây tùng tòng và cây bách bá, trong văn chương thường được dùng để tượng trưng cho những người có ý chí vững mạnh, kiên cường, thẳng thắn. Dứa Còn gọi là thơm hoặc gai, loại cây ăn quả có thân ngắn, lá dài, cứng, có gai ở mép và mọc thành cụm ở ngọn thân, quả có nhiều mắt, phía trên có một cụm lá. Cây dứa đang ra quả Duối Loại cây mộc, cỡ trung bình, thân khúc khuỷu, nhiều cành chằng chịt, có mủ trắng. Lá duối ráp dùng làm giấy nhám làm nhẵn mặt gỗ. Duối được dùng làm vị thuốc và trồng trong chậu nhỏ làm cây cảnh. Đàng Đường, hướng phương ngữ Trung và Nam Bộ. Ni Này, nay phương ngữ miền Trung. Bài này có lẽ là dị bản của bài Năm xưa anh ở trên trời. Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về , hãy đóng góp cho chúng tôi. Phượng hoàng Một loài chim trong thần thoại Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng. Trước đây, con trống được gọi là Phượng hay phụng còn con mái được gọi là Hoàng, nhưng ngày nay thì sự phân biệt đực, cái đã gần như không còn, và phượng hoàng được xem là giống cái, trong khi rồng được xem là giống đực. Phượng hoàng là vua của các loài chim, tượng trưng cho sự thanh cao. Một hình vẽ chim phượng hoàng Miếu Trung và Nam Bộ cũng gọi là miễu, một dạng công trình có ý nghĩa tâm linh, tín ngưỡng trong văn hóa nước ta. Nhà nghiên cứu Toan Ánh trong Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, cho rằng Miếu cũng như đền, là nơi quỷ thần an ngự. Miếu nhỏ hơn đền, thường xây theo kiểu hình chữ nhật với hai phần cách nhau bởi một bức rèm, nội điện bên trong và nhà tiền tế bên ngoài… Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân chúng làm nhộn. Trong miếu cũng có tượng thần hoặc bài vị thần linh, đặt trên ngai, ngai đặt trên bệ với thần sắc hoặc bản sao… Miếu Nhị Phủ ở Sài Gòn Khu Đít, mông phương ngữ. Chừ Giờ. Bây chừ nghĩa là "bây giờ" phương ngữ Trung và Nam Bộ. Tề Kìa phương ngữ miền Trung. Bình Đông Một địa danh nay thuộc quận 8, thành phố Hồ Chí Minh, là một khu vực đóng vai trò quan trọng với Sài Gòn - Chợ Lớn hình thành cách đây 200 năm. Tại đây có chợ Bình Đông, một ngôi chợ tấp nập, trên bến dưới thuyền. Chợ hoa ở bến Bình Đông Chợ Lớn Tên chính thức là chợ Bình Tây, còn gọi là chợ Lớn mới để phân biệt với chợ Lớn cũ nay không còn, hiện nay thuộc địa bàn quận 6, giáp ranh quận 5 và quận 10, được xem là trung tâm mua bán của người Việt gốc Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh. Chợ được Quách Đàm - một phú thương người Hoa - xây dựng vào năm 1928 nên còn được gọi là chợ Quách Đàm, kiến trúc chợ mang nhiều nét Á Đông pha lẫn tân kì. Chợ Bình Tây ngày trước Xóm Củi Địa danh xưa là một ấp, nay là tên đường tại phường 11, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh. Có tên như vậy vì trước đây khu vực này chuyên bán củi đun bếp. Tại đây có các địa danh liên quan như chợ Xóm Củi, rạch Xóm Củi, cầu Xóm Củi... Rạch Xóm Củi ngày xưa Chợ Đũi Còn bị đọc trệch thành chợ Đuổi, ra đời đầu thế kỷ 19 tại phường Phạm Ngũ Lão, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, bán các thứ hàng thô dệt bằng tơ gốc đũi. Năm 2005, chợ này đã bị giải tỏa. Chợ Đũi ngày xưa qua tranh kí họa Trát Giấy truyền lệnh của quan lại ngày xưa. Từ chữ Hán 札 nghĩa là cái thẻ, vì ngày xưa không có giấy nên mọi mệnh lệnh muốn truyền đạt phải viết vào miếng gỗ nhỏ. Điếm Từ Hán Việt, nghĩa rộng là hàng quán, nhà trọ... Tòng tam tụ ngũ Tụ tập đông người. Một thành ngữ tương đương là Tụm năm tụm bảy. Phu thê Vợ chồng từ Hán Việt. Có âm dương, có vợ chồng, Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê. Cung oán ngâm khúc Thám hoa Học vị của người đỗ thứ ba trong khoa thi Đình thời phong kiến sau Trạng nguyên và Bảng nhãn. Sùng Bị sâu, bị thối. Sùng cũng có nghĩa là sâu. Nghĩa giao hòa Nghĩa vợ chồng dùng trong ca dao dân ca. Nan phân Khó phân giải, giãi bày. Cỏ gà Còn có các tên khác là cỏ chỉ, cỏ ống, một loại cỏ sinh trưởng rất mạnh, bò kết chằng chịt với nhau thành thảm dày đặc. Trẻ em ở nông thôn có trò chơi đơn giản từ cỏ gà gọi là "chọi cỏ gà" hay "đá cỏ gà." Cỏ gà Theo kinh nghiệm dân gian, khi nào rễ si, rễ đa, cỏ gà, cỏ gừng... nảy mầm trắng tức là trời sắp mưa. Rau cần Một loại rau xanh thường được nhân dân ta trồng để nấu canh, xào với thịt bò, hoặc làm vị thuốc. Canh cá nấu cần Mơ Một loại cây mọc nhiều ở vùng rừng núi phía Bắc, có hoa trắng hoặc đỏ, nở vào mùa xuân. Quả mơ vị chua chát, dùng để làm nước ép, ướp đường, làm ô mai, làm rượu, mứt, hoặc chế biến thành các món canh. Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau. Quả mơ Mận Loại cây mọc nhiều ở vùng rừng núi phía Bắc, hoa trắng, nở vào mùa xuân. Quả mận vị chua ngọt, có loại vỏ màu tím, xanh nhạt, vàng, hay đỏ. Các bộ phận của cây mận như quả, rễ, nhựa, lá, nhân hạt... đều có tác dụng chữa bệnh. Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau. Mận tam hoa ở Bắc Hà, Lào Cai
150+ Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Xanh, Thực Vật ❤️️ Cây Cối ✅ Tổng Hợp Danh Sách Những Câu Ca Dao Hay Nhất Về Các Loài Cây. Những Câu Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Xanh Hay NhấtCa Dao Tục Ngữ Về Cây Cối Cực HayCa Dao Tục Ngữ Về Cây Trồng Chọn LọcCa Dao Tục Ngữ Về Thực Vật Bất HủCa Dao Tục Ngữ Về Cây Dừa Nổi TiếngCa Dao Tục Ngữ Về Cây Chuối Đặc SắcCa Dao Tục Ngữ Về Cây Thuốc Nam Ngắn HayCa Dao Về Khu Vườn Ngắn Gọn Những Câu Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Xanh Hay Nhất Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm Những Câu Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Xanh Hay Nhất dưới đây. Cúc đang xanh, sao cúc vội tànKiểng đang xanh, sao kiểng héo, tôi hỏi nàng tại ai?Mặt nhìn, lụy nhỏ hàng hai,Cúc tàn, kiểng héo tại hai đứa mình Cây kiểng trồng rào rấp xung quanhVì anh vô ý, cây kiểng đương xanh vội tànAnh gặp em đứng lại giữa đàngMuốn phân nhơn nghĩa, ngỡ ngàng khó phân Tre già măng mọc luân hồiTre xanh xanh khắp đất trời Việt Nam Trời nắng như lửa đốtMà cây xanh vẫn cứ phơiLàm bóng râm che đấtLàm bóng râm che người. Trồng tre đất sỏi, trồng tỏi đất bồi Làng tôi có luỹ tre xanh,Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm bờ vải, nhãn hai hàng,Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng. Đầm sen, bãi sậy, rừng tràm,Kinh dài xé đất, cây xanh rợp trời. Bước xuống Bắc Mỹ Tho thấy sóng xô nước đẩy,Bước lên bờ Rạch Miễu thấy nước chảy cây biết chắc nơi đây là đất Châu Thành,Sao tìm hoài không thấy trong đám bộ hành bóng em. Chùa Tiên chín chín cây thông,Ai không trồng đủ, làng không cho về. Ai đâu mà chẳng biết taTa ở Xóm Láng, vốn nhà trồng rauRau thơm, rau húng, rau mùiThì là, cải cúc, đủ loài hành hoaMồng tơi, mướp đắng, ớt càBí đao đậu ván vốn nhà trồng nên Xem thêm các 🌈 Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Tre 🌈 nổi tiếng, ngoài Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Xanh Chia sẻ đến bạn đọc các câu Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Cối Cực Hay và thú vị sau đây. Em như hoa gạo trên cànhAnh như là đám cỏ may ven đườngLạy trời cho gió cả sươngEm như hoa gạo rụng xuống chịu lòn cỏ may Hoa lài hoa lý hoa NgâuChẳng bằng hoa bưởi thơm lâu diệu dàng Lúa chiêm lấp ló đầu bờHễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên Một cây làm chẳng nên nonBa cây chụm lại lên hòn núi cao Trông trời chẳng thấy trời mưaLan khô huệ héo, khổ chưa hỡi trời Thân em như lúa nếp tơ,Xanh cây tốt rễ, phởn phơ phơi màu. Mạ non bắt nhẻ cấy biềnThương em đứt ruột, chạy tiền không ra. Than vì cây lúa lá vàngNước đâu mà tưới nó hoàn như xưa Chim xanh ăn trái xoài xanhĂn no tắm mát đậu cành cây đaCực lòng em phải nói raChờ trăng, trăng xế, chờ hoa, hoa tàn Cây tre lóng cụt lóng dàiAnh lấy em vì bởi ông mai lắm lời Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Trồng Chọn Lọc Tìm đọc thêm những câu Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Trồng Chọn Lọc hay nhất sau đây, cùng thưởng thức ngay nhé. Yêu em, anh muốn vun trồngTrái đơm muôn vị, hoa lồng ngàn hương. Lúa chiêm đào sâu chôn mùa vừa đặt vừa đi Cấy thưa thừa thóc, cấy dày cóc ăn Hay mình về quê anh nhỉ?Trồng lúa, trồng rau, nuôi gàSớm chiều em là tri kỷChôn vùi năm tháng bôn ba Dưa gang một, chạp thì trồngChiêm cấy trước tết thì lòng đỡ lo Đom đóm bay ra, trồng cà tra đỗ,Tua rua bằng mặt, cất bát cơm chăm Bao giờ đom đóm bay raHoa gạo rụng xuống thì tra hạt vừng Nắng sớm trồng càMưa sớm ở nhà phơi thóc Đẹp thay ý nghĩa trồng câyMùa thơm trái ngọt nắng vầy bóng râmLại khi gió rét mưa dầmChim về ẩn náu âm thầm qua cơn Cây xanh thì lá cũng xanh,Cha mẹ hiền lành để đức cho cây rồi lại mừng cành,Cây tốt lắm chồi, người đức lắm vuông sánh với bảy tròn,ời cha vinh hiển, đời con sang giàu. Bên cạnh Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Xanh, gửi đến bạn tập ✳️ Thơ Về Trồng Cây ✳️ hay nhất Ca Dao Tục Ngữ Về Thực Vật Bất Hủ giới thiệu đến bạn những câu Ca Dao Tục Ngữ Về Thực Vật Bất Hủ nổi tiếng nhất. Trong đầm gì đẹp bằng senLá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Cá bống còn ở trong hangLá rau tập tàng còn ở ruộng dâuTa về, ta sắm cần câuCâu lấy cá bống, nấu rau tập tàng Trúc xinh trúc mọc đầu đìnhEm xinh em đứng một mình vẫn xinh Hoa sen đã nởRực rỡ đầy hồThoang thoảng gió đưaMùi hương thơm ngátLá sen xanh ngátĐọng hạt sương đêmGió rung êm đềmSương long lanh chạy. Dây ở trên mâyLà trái đậu rồngủ vợ đủ chồngLà trái đu đủCắt ra nhiều mủLà trái chuối chát Mình tựa gà ácTrái khóm, trái đầu chôm bômLà trái bắp nấuHình thù xâu xấuTrái cà dái dêNgứa mà gãi mêLà trái mắt mèo Khoanh tay lo nghèoLà trái bần ổiSông sâu chẳng lộiLà trái mãng cầuBù cổ, bù đầuTrái dâu, trái cáchCái bụng óc áchLà trái dừa tươi Gai góc đầy ngườiLà trái mít ướtSanh ở dưới nướcTrứng cá ngon ngonĂn thấy giòn giònLà ổi xá-lị U buồn, bi lụyLà trái sầu riêngSánh với tay tiênLà trái phật thủTiền bạc đầy đủChính là trái sung Tóc mọc lung tungLà chôm chôm trốcXù xì da cócLà mãng cầu xiêmNghe tên phát thèmMe chua, xoài tượngĂn nhiều thì ớnLà lê-ki-ma Có sọc, có hoaúng là trái vảiẹp như con gáiTrái hồng, trái đàoMắt sáng như saoKhác nào trái nhãn Hay ngồi hàng quánTrái cà, trái lêLàm dưa khỏi chêCà non, cà pháoChẳng biết gì ráoTrái bí không sai Gốc ở nước ngoàiTrái nho, trái táoNhai nghe rào rạoậu phộng, hột điềuựng được thiệt nhiềuLà trái bình bát Muốn ăn đập nátTrái lựu chớ chiCho bú trẻ thơLà trái vú sữaCòn nhiều nhiều nữaAi biết xin mờiKể tiếp nghe chơiCái vè cây trái. Cô lang, cô muốngRủ nhau cùng bòXem ai tới trướcÔm được gốc cái phất cờCó khuyên hót giụcCả muống, cả langCùng về một lượt. Ngoài Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Xanh, gợi ý thêm tập ➡️ Thơ Về Chủ Đề Thực Vật ⬅️ hay nhất Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Dừa Nổi Tiếng Có thể nói dừa là một loại cây rất quen thuộc và nổi tiếng ở Bến Tre. Hãy cùng điểm qua một số câu Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Dừa Nổi Tiếng sau đây nhé! Không chồng, son phấn qua loa,Có chồng, em trang điểm nước hoa dầu dừa Bến Tre dừa ngọt sông dàiNơi chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh Dì Hai ơi hỡi dì HaiMiệng nhai bánh tráng, miệng nhai cùi dừa Công đâu công uổng công thừa,Công đâu gánh nước tưới dừa Tam đâu công uổng công hoangCông đâu gánh nước Tam Quan tưới dừa. Tam Quan đất tốt trồng dừa,Nam thanh nữ tú cho vừa ý anh. Ai qua Bình Định đang trưa,Dừng chân uống bát nước dừa Tam về ăn ổi Đình Quang,Ăn ớt Vĩnh Thạnh, ăn măng Truông Dài. Tam Quan ngọt nước dừa xiêm,Cha từ, mẹ bỏ vẫn tìm theo anh. Trồng dừa ra đọt chặt tàuSợ anh đổi dạ quay đầu bỏ em Trời mưa cho ướt lá dừaCho tươi luống cải cho vừa lòng emCho em hái đọt rau dềnNấu tô canh ngọt dâng lên mẹ già Nước thơm là ở nơi cùiDừa ngon là ở nơi người biết chăm Ngọn dừa bóng ngả mái tranhTrăng tà em mới hỏi anh đôi lờiAi làm cho bóng trăng rơiCho mây lơ lửng, cho trời lọ lem? Dừa tơ bẹ dún, tốt tàngGiàu sang có chỗ, điếm đàng có nơi Thấy dừa thì nhớ Bến TreThấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười Muốn về Mỹ Á ăn dừaSợ e Mỹ Á đẩy đưa nhiều lời. Sông Thu chẳng thiếu đò đưaBùi khoai Chợ Được, mát dừa Kiến TânQuế Sơn cau mít mấy tầngMê lòn bon Đại Lộc, nhớ rượu cần Trà My Chia sẻ chùm ✳️ Thơ Về Cây Dừa ✳️ bất hủ, bên cạnh Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Xanh Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Chuối Đặc Sắc Từ lâu cây chuối là một trong những loài cây gần gũi nhất đối với người nông dân Việt Nam, bạn có thể bắt gặp cây chuối ở khắp mọi nơi tại các vùng làng quê Việt Nam. Cùng điểm qua một số câu Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Chuối Đặc Sắc dưới đây nhé! Chị em như chuối nhiều tàuTấm lành che tấm rách, đừng nói nhau nặng lời Chuối sau, cau trướcChuối vườn sau, cau vườn trước Công anh trồng chuối lên bàuLá thời ai rọc, bỏ tàu bơ vơCông anh đắp đập be bờĐể ai tháo nước làm lờ anh trôi Gió đưa bụi chuối sau hè,Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơCon thơ tay ẵm tay bồngTay dắt mẹ chồng, nách cặp con dao Đầu năm trồng chuối, cuối năm trồng cam Gió đưa bụi chuối sau hèBụi môn trước cửa ai dè em hưGió đưa gió đẩy lá dừaLấy ai thì lấy xin chừa em ra Gió đưa bụi chuối te tàuChàng Nam thiếp Bắc làm giàu ai ăn? Bắp chuối mà gói sầu đâuVừa đắng vừa chát, mời nhau làm gì? Trách ai trồng chuối dưới bàuTrái ăn, lá rọc, bỏ tàu xác xơ Gió đưa bụi chuối tùm lumMẹ anh như hùm ai dám làm dâu Ai đem con két vô vườnCho nên con két ăn buồng chuối tiêu Ai làm cho chuối không cànhCho anh không vợ cắn quanh mẹ giàMẹ già như mẹ người taThì anh có vợ trong nhà đã lâuMẹ anh ác nghiệt cơ cầuCho nên anh chịu âu sầu đến nay Đầu làng có cây chuốiCuối làng có cây đaNgã ba có cây đại hồngCon gái chưa chồng trong lòng hớn hởCon trai chưa vợ ruột tợ trái chanhNgó lên mây trắng trời xanhThương ai cũng vậy thương anh cho rồi Trẻ trồng na,Già trồng chuối Chuộng chuối, chuối lại cao tàuThương anh, anh lại ra màu làm caoXin đừng bắc bậc làm caoPhèn chua em đánh nước nào cũng trong Ngoài Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Xanh, xem thêm tập 💜 Thơ Về Cây Chuối 💜 hay nhất Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Thuốc Nam Ngắn Hay Bên cạnh Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Xanh, xem thêm một vài gợi ý Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Thuốc Nam Ngắn Hay dưới đây nhé! Đậu xanh, rau muống, của chuaCó tính dã thuốc chớ cho uống cùng Nằm bên tủ thuốc than dàiAnh đau bịnh nặng, biết bài thuốc chi Thuốc có cam thảo, nước có lão thần Một quả cà bằng ba thang thuốc Ăn cà bổ pháo Lòi trĩ mới phải rịt lá vông Lòi trĩ mới phải rịt lá vông Đau bụng lấy bụng mà chườm, nhược bằng không khỏi hoắc hương với gừng Ca Dao Về Khu Vườn Ngắn Gọn Ngoài Ca Dao Tục Ngữ Về Cây Xanh, chia sẻ thêm đến bạn một vài câu Ca Dao Về Khu Vườn Ngắn Gọn và ý nghĩa dưới đây Trồng cây không đụng lá,Nuôi cá không đụng đuôi Lập vườn sao anh không sớm viếng tối thămĐể trâu bò gặm hết, mấy năm cho thành Cây nhà lá vườn Chuồn chuồn bay thấpNước ngập ruộng vườnNghe lời em nói càng thươngAnh về mua đất lập vườn cưới em. Ta về ta rủ bạn taRuộng ta ta cấy, vườn ta ta trồngCó làm thì hẳn có côngCan chi chầu chực mà mong của người Vui thú điền viên với cảnh câyChăm lo vun xới góc riêng nàyTỉa cành, uốn tán nuôi hình đẹpChọn gốc, gây mầm tạo nét sayThế trực, dáng hoành tùy trí ócLong chầu, hổ phục bởi bàn tayNgắm cây tức cảnh, hồn lai lángMượn tứ gieo vần, dạ đắm say. Đừng bỏ lỡ chùm 💙 Thơ Về Cây Cảnh 💙 ngắn gọn
Do cây lúa là cây trồng chính của nước ta nên kinh nghiệm trồng lúa hay thông tin về cây lúa thường được người nông dân truyền miệng nhau bằng nhiều câu ca dao tục ngữ ngắn gọn, dễ nhớ. Sau đây là một số câu ca dao về cây lúa hay nhất– Trông trời chẳng thấy trời mư Lan khô huệ héo, khổ chưa hỡi trời.– Thân em như lúa nếp tơ, Xanh cây tốt rễ, phởn phơ phơi màu.– Mạ non bắt nhẻ cấy biền Thương em đứt ruột, chạy tiền không ra.– Trời mưa cho lúa thêm bông Cho đồng thêm cá, cho sông thêm thuyền. – Lúa khô nước cạn ai ơi Rủ nhau tát nước, chờ trời còn lâu. – Cực lòng thiếp lắm chàng ơi Kiếm nơi khuất tịch, thiếp ngồi thở than – Hỡi cô cấy lúa khum lưng, Mặt trời xế bóng sao chưn chưa về? – Đừng ham gạo trắng thơm tho Lúa Trì cùng với lúa Co chắc lòng. – Cấy ba cây lúa dựa bờ Anh đi anh trợt, anh rờ anh coi. – Giời mưa ướt áo nâu sồng Công em đi cấy quăng đồng đồng xa Mùa này trời giúp cho ta Mùa này lúa tốt bằng ba mọi mùa. – Trời cao đất rộng thênh thang, Tiếng hò giọng hát ngân vang trên đồng, Cá tươi gạo trắng nước trong, Hai mùa lúa chín thơm nồng tình quê – Anh đi lúa chửa chia vè, Anh về lúa đã đỏ hoe đầy đồng Anh đi em chửa có chồng Anh về em đã tay bồng tay mang. – Giời mưa ướt áo nâu sồng Công em đi cấy quăng đồng đồng xa Mùa này trời giúp cho ta Mùa này lúa tốt bằng ba mọi mùa. – Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, Hễ nghe tiếng sấm, phất cờ mà lên. – Tỏ trăng mười bốn được tằm Tỏ trăng hôm rằm thì được lúa chiêm. – Lúa chiêm thì cấy cho sâu Lúa mùa thì gẩy cành dâu mới vừa. – Mạ úa cấy lúa chóng xanh Nạ dòng chóng đẻ, sao anh hững hờ? – Anh đi kiệu lộng ba bong Bỏ em cấy lúa đồng không một mình. – Đố ai biết lúa mấy cây Biết sông mấy khúc biết mây mấy tầng. – Tua rua thì mặc tua rua Mạ già, ruộng ngấu không thua bạn điền. – Trâu ơi ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta. Cấy cày giữ nghiệp nông gia. Ta đây trâu đấy, ai mà quản công! Bao giờ cây lúa còn bông Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn – Công danh theo đuổi mà chi, Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông. Sớm khuya có vợ có chồng, Cày sâu bừa kỹ mà mong được mùa. – Ai ơi! Nhớ lấy lời này Tằm nuôi ba lứa, ruộng cày ba năm. Nhờ trời hòa cốc phong đăng, Cấy lúa lúa tốt, nuôi tằm tằm tươi. Được thua dù có tại trời, Chớ thấy sóng cả mà rời tay co – Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. – Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Lúa rụng đầy đồng, gà chẳng cần ăn. – Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn. – Gỗ kiền anh để đóng cày Gỗ lim gỗ sến anh nay đóng bừa Răng bừa tám cái còn thưa Lưỡi cày tám tấc đã vừa luống to Muốn cho lúa nẩy bông to Cày sâu bừa kĩ, phân gio cho nhiều. – Cầu cho mưa thuận gió lành, Lúa vàng nặng hạt, ruộng anh được mùa. – Lập thu mới cấy lúa mùa, Khác nào hương khói lên chùa cầu con. – Cấy ba cây lúa cho chuôn , Anh đi dạo ruộng, dẫu buồn cũng vui. 2. Những câu tục ngữ về cây lúa ấn tượng nhất Không chỉ là nguyên liệu để tạo nên nhiều món ăn ngon, cây lúa còn là biểu tượng của sự no đủ, no đủ, có ý nghĩa rất lớn trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Vì vậy, những câu tục ngữ về cây lúa được tổng hợp dưới đây để thấy rằng ông cha ta đã gửi gắm bao ước vọng, ước mơ về một cuộc sống ấm no, đủ đầy. – Năm trước được cau, năm sau được lúa. – Được mùa lúa, úa mùa cau. Được mùa cau, đau mùa lúa. – Mấy ai biết lúa von, mấy ai biết con hư. – Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa. – Một nuộc lạt, một bát cơm. – Ăn kĩ no lâu. Cày sâu tốt lúa. – Làm ruộng ăn cơm nằm, chăn tằm ăn cơm đứng. – Thóc lúa về nhà, lợn gà ra chợ. Thóc cót thóc bồ, bồ còn thóc hết. – Ré thừa cấy nỏ. Chiêm thừa bỏ đi – Mùa đứt trối. Chiêm bối rễ – Mùa nứt nanh. Chiêm xanh đầu 3. Những câu ca dao tục ngữ về cây lúa hạt gạo Gạo là lương thực và tiền tệ của người dân Việt Nam từ hàng ngàn năm nay. Vì vậy, có rất nhiều câu ca dao, tục ngữ nói về cây lúa. Dưới đây là một số câu ca dao, tục ngữ về cây lúa thường được nghe nhiều nhất. – Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai Ai về xin nhớ cho ai theo cùng. – Cái cò lặn lội bờ sông Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non. – Ăn trái nhớ kẻ trồng cây Ăn gạo nhớ kẻ đâm xay giần sang. – Gạo đổ bốc chẳng đầy thưng. – Gạo chợ, nước sông, củi đồng, nồi đất. – Cơm chéo áo, gạo chéo khăn. – Người sống về gạo, cá bạo về nước. – Gạo châu củi quế. – Mạnh vì gạo, bạo vì tiền. – Bao giờ cho đến tháng năm Thổi nồi cơm nếp vừa nằm vừa ăn Bao giờ cho đến tháng mười Thổi nồi cơm nếp vừa cười vừa ăn – Tiếc thay hột gạo trắng ngần Đã vo nước đục, lại vần than rơm Tiếc thay hạt gạo tám xoan Thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà. – Cái ngủ mày ngủ cho say Mẹ mày vất vả chân tay suốt ngày Bắt được một giỏ cá đầy Bán đi mua gạo cho mày nấu ăn. – Cần Thơ gạo trắng nước trong, Ai đi đến đó lòng không muốn về. Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi Gạo thơm Nàng Quốc em nuôi mẹ già. – Ai làm nên nỗi chồng chê Làm gạo quên sảy, quên giê, quên sàng Bởi anh lấp ló ngoài đàng, Nên em quên sảy, quên sàng, quên giê. – Đôi bên bác mẹ cùng già Lấy anh hay chữ để mà cậy trông Mùa hè cho chí mùa đông Mùa nào thức ấy cho chồng ra đi Hết gạo thiếp lại gánh đi Hỏi thăm chàng học ở thì nơi nao? Hỏi thăm đến ngõ thì vào Tay đặt gánh xuống, miệng chào Thưa anh! – Thấy nếp thì lại thèm xôi Ngồi bên thúng gạo nhớ nồi cơm thơm – Hai tay xới xới đơm đơm Công ai cày cấy sớm hôm đó mà. 4. Ca dao, tục ngữ về kinh nghiệm trồng trọt chăn nuôi Ca dao, tục ngữ từ xưa đến nay luôn là những kinh nghiệm quý báu của thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau. Ta có thể dựa vào những câu tục ngữ này để dự đoán mùa vụ, thời tiết, mùa màng… – Lúa chiêm lấp ló đầu bờ – Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên – Cấy lúa ruộng lạ, gieo mạ ruộng quen – Cấy tháng sáu máu rồng, cấy tháng chạp đạp không ra. – Cấy lúa mùa tháng sáu, cấy lúa chiêm tháng chạp là hợp thời vụ. – Chiêm ba vải, mùa phải thời. – Lúa mùa phải cấy đúng ngày, đúng thời vụ; lúa chiêm có thể sớm muộn một chút cũng được. – Trồng tre đất sỏi, trồng tỏi đất bồi. – Tháng chạp là tháng trồng khoai Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà Tháng ba cày vỡ ruộng ra Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng – Muốn ăn lúa chiêm xem trăng rằm tháng tám. Muốn ăn lúa dé, xem trăng rằm tháng giêng. Muốn ăn lúa tháng mười, trông trăng mồng tám tháng tư – Một cục đất ải bằng một bãi phân. – Đất thiếu trồng dừa, đất thừa trồng cau – Đất màu trồng đậu trồng ngô Đất lầy cấy lúa, đất khô làm vườn”; – Tỏ trăng mười bốn được tằm Tỏ trăng hôm rằm thì được lúa chiêm – Tháng bảy mưa gãy cành tràm Tháng tám nắng rám trái bưởi” – Trăng mờ tốt lúa nỏ. Trăng tỏ tốt lúa sâu – Thiếu tháng hai mất cà, Thiếu tháng ba mất đỗ, Thiếu tháng tám mất hoa ngư, Thiếu tháng tư mất hoa cốc – Tháng giêng trồng trúc, tháng lục trồng tiêu – Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân 5. Vai trò của giống cây trồng trong nông nghiệp Vai trò của giống cây trồng là tăng năng suất, tăng chất lượng nông sản, tăng nhiệm vụ và chuyển đổi cơ cấu cây trồng giúp mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho người nông dân. – Tiêu chí chọn giống cây trồng tốt. Giống cây trồng tốt sẽ giúp người nông dân không phải tốn nhiều công sức chăm sóc. Vì vậy, người nông dân luôn cố gắng tỉ mỉ trong khâu chính là sản xuất giống cây trồng tốt nhất để vừa tiết kiệm chi phí vừa không bỏ nhiều công sức. Để có thể đánh giá hạt giống có chất lượng hay không, người nông dân sẽ dựa vào các tiêu chí sau – Dựa vào sự trưởng thành và phát triển tốt trong điều kiện môi trường, khí hậu, thổ nhưỡng, trình độ canh tác của từng địa phương. Một loại cây trồng trong điều kiện đất đai màu mỡ chắc chắn sẽ phát triển tốt hơn một loại cây trồng trên những cánh đồng khô cằn, thiếu nước. Nhưng đôi khi cũng chỉ có một số giống cây chỉ thích hợp sống ở nơi khô hạn như xương rồng, mọng nước, – Dựa vào chất lượng hạt giống tốt, hạt giống chất lượng tốt sẽ giúp cây phát triển tốt hơn, ngược lại nếu hạt giống có sâu bệnh thì khả năng ra sân của bóng đá sẽ kém. Vì vậy, nếu không chọn lọc kỹ sẽ dẫn đến tình trạng mất mùa. – Căn cứ vào năng suất cao và ổn định, giống năng suất cao chưa chắc đã tốt. Nhưng cây tốt phải đi kèm với sự ổn định mới là cây tốt. Nó có khả năng kháng sâu bệnh. Nếu hạt giống không kháng được sâu bệnh, người nông dân sẽ phải tốn nhiều công sức chăm sóc. Hạt bị nhiễm bệnh sẽ làm giảm năng suất và chất lượng sản phẩm.
ca dao về trái cây